25 thg 1, 2024

NHỚ BẠN HIỀN









NHỚ BẠN HIỀN
***
Mỗi năm mai vàng nở
Ông đồ Cẩn lại về
Thăm cô con gái nhỏ
Và gặp bạn bè xưa
Bao nhiêu người tấm tắc
Thầm khen ông bạn già
Chẳng nề hà tuổi tác
Bay từ nước Úc xa
Về Việt Nam ăn Tết
Hẹn nhau đúng mồng hai
Họp mặt các bạn cũ
Hàn huyên chuyện lai rai
Trường xưa vẫn còn đấy
Thầy cô đã đi xa
Bụi tre già ủ rũ
Cổng trường cũng đổi thay
Năm nay mai vàng nở
Không thấy ông đồ già
Người bạn thân năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

BÀI THƠ HOA ĐÀO

 


***
Đất nước đang vào xuân ,Tết Giáp Thìn đã cận kề. Nhìn hoa đào, hoa mai rộ nở khắp nơi, Mru tôi chợt nhớ một bài thơ nổi tiếng của Thôi Hộ vào thời Đường xưa của Thôi Hộ ,bài “Đề tích sở kiến xứ”. Bài thơ có hai câu cuối rất hay từng được thi hào Nguyễn Du đem vào Truyện Kiều để diễn tả mối tương quan sâu sắc giữa cảnh quan thiên nhiên và tâm tư tình cảm con người .Trong lần trở lại vườn Thúy tìm Kiều, Kim Trọng buồn man mác vì người xưa vắng bóng, chỉ thấy cảnh cũ hoa đào cười trước gió đông ngày xuân :
“ Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông ”
“Đề tích sở kiến xứ” còn có tên khác là “Đề Đô Thành Nam Trang“. Nguyên tác như sau :
題 都 城 南 莊 - ( 題昔所見處 )
去 年 今 日 此 門 中,
人 面 桃 花 相 映 紅。
人 面 不 知 何 處 去?
桃 花 依 舊 笑 春 風。
Dịch âm
Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
– Thôi Hộ –
Dịch nghĩa:
Ngày này năm ấy tại cửa này đây,
Hoa đào thắm sắc má ai ửng hồng.
Má hồng nay ở đâu sao chẳng thấy,
Đào hoa năm trước vẫn cười gió đông.
***
Bài thơ chỉ bốn câu sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tuy ngắn gọn nhưng súc tích, hàm ý sâu xa. Nội dung bài thơ kể về một mối tình si ,tơ duyên ngắn ngủi nhưng làm người ta nhớ mãi khôn nguôi.
Chuyện kể rằng vào tiết thanh minh năm ấy, có một chàng trai dạo chơi ở phía nam Đô thành. Trông thấy một trang viên hoa đào nở rộ, sắc hoa tươi thắm, chàng ta bèn lấy cớ vào xin nước uống để ngắm kĩ hơn.
Chàng trai gõ cửa,bước vào bắt gặp một thiếu nữ thanh tú. Người con gái mang nước mời chàng trai uống, cử chỉ vừa dịu dàng vừa kín đáo làm người khách nao lòng. Uống nước xong, chàng trai cảm tạ rồi cáo biệt. Khi về nhà, chàng trai vẫn nhớ mãi hình dáng hôm ấy của người con gái, cô có đôi má hây hây hồng tựa như cánh hoa nào.
Tròn một năm trôi qua, chàng trai trở lại chốn xưa, hy vọng gặp lại cố nhân. Nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi mà chẳng thấy ai. Vấn vương ,tức cảnh sinh tình, chàng trai đề một bài thơ trên cánh cổng trước khi về.
Không lâu sau thấy lòng bồn chồn,chàng trai trở lại nghe tiếng khóc vọng ra từ trang viên. Một ông lão bước ra, vẻ mặt tiều tụy hỏi chàng trai kia có phải là người đã đề thơ lên cổng.Thì ra người con gái con của ông lão đọc xong bài thơ, nhớ thương đến bỏ ăn bỏ ngủ rồi ốm chết. Chàng trai đến ngồi cạnh xác người con gái .Nàng đã tắt thở nhưng vẻ mặt vẫn phớt hồng như hoa đào năm trước .Chàng xúc động ,cảm thương ,trách tạo hóa trớ trêu thay cho mối duyên con người .
Cũng có lời truyền rằng. Người con gái chưa hồn lìa khỏi xác, nghe tiếng khóc than của người thương thì tỉnh dậy. Từ đó hai người trở thành vợ chồng, cùng sống hạnh phúc ở đào hoa viên. Cũng từ điển tích này mà người ta hay ví gương mặt người con gái đẹp giống như hoa đào.

QUÊ TÔI Ở CHẮC CÀ ĐAO

 



Chuyện kể rằng trong một tuồng cải lương nổi tiếng, một danh hài khi được hỏi quê ở đâu, bèn đáp gọn: “Tui ở Chắc Cà Đao, Mặc Cần Dưng”.
Câu trả lời khôi hài vậy mà lại khiến nhiều người nhớ. Nó có duyên đến mức nhiều người chưa biết Chắc Cà Đao ở đâu cũng hay đáp “Quê tôi ở tận Chắc Cà Đao” để nói rằng nhà ở xa xôi, hẻo lánh lắm. Nhưng hỏi Chắc Cà Đao là gì thì không ai giải thích được. Vậy Chắc cà đao bắt nguồn từ đâu? Chắc Cà Đao ở đâu ? Nó có phải là một địa danh nào đó ở Việt Nam hay không?
Thật ra Chắc Cà Đao có thực và là tên một địa danh thuộc Thị trấn An Châu, huyện Châu Thanh, tỉnh An Giang. Nếu bạn đi trên Quốc lộ 91 theo hướng Long Xuyên lên Châu Đốc thì đi khoản 9km gặp cầu Chắc Cà Đao. Cầu này bắt qua con kênh cùng tên. Đi qua cầu, bên phải là chợ Chắc Cà Đao (ngày nay là chợ An Châu) và các cơ quan hành chính huyện. Bên trái là làng nghề làm gập chuột và khu dân cư.
Ngày xưa, cụm từ “Chắc Cà Đao” ngoài việc được dùng để chỉ một xứ sở xa lơ xa lắc ở đâu đó tuốt dưới miền Tây, còn được ám chỉ một nhân vật “quê mùa, thô kệch” lắm . “Mặc Cần Dưng” cũng vậy, tưởng như ba cái từ để trêu chọc qua lại, ấy vậy mà nó có thật.
Thường hai cụm từ trêu ngươi ấy luôn đi liền với nhau bởi nó là hai địa phương cũng chẳng xa nhau lắm đâu :
Làng quê tên Mặc Cần Dưng
Hướng lên Châu Đốc nửa chừng cầu cao.
Dưới kia là Chắc Cà Đao,
Cách tám cây số không sao lạc đường.
Thực tế là Chắc Cà Đao và Mặc Cần Dưng là một địa phương có từ lâu đời của tỉnh An Giang, hai địa phương này chỉ cách Long Xuyên trong khoảng 10km trở lại. Sau 1975, cả hai đều thuộc huyện Châu Thành. Mặc Cần Dưng là xã Bình Hòa, huyện Châu Thành. Sau này Bình Hòa chia thành 2 xã Bình Hòa và An Hòa. Còn Chắc Cà Đao trước là Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành. Nay là thị trấn An Châu, tuy tên không còn nhưng chiếc cầu ngay thị trấn vẫn còn tên Chắc Cà Đao, như để hoài niệm về một thời xưa cũ.
Về nguồn gốc tên gọi Chắc Cà Đao có nhiều giả thiết. Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Tự vị quốc âm miền Nam nói có hai cách lý giải:
– Ông Nguyễn Văn Đính cho rằng Chắc Cà Đao là do tiếng Khmer “chắp kdam” nghĩa là “bắt cua” vì vùng này xưa kia có nhiều cua.
– Nhà nghiên cứu Sơn Nam nói Chắc Cà Đao là từ tiếng Khmer “prek pedao”. “Prek” là rạch, “pedao” là một loại dây mây (trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam thì Sơn Nam nói prek pedao là rạch có cây rừng mọc).
Cụ Vương Hồng Sển cho rằng ý kiến ông Nguyễn Văn Đính đúng hơn. Có lẽ vì so với Chắc Cà Đao thì “chắp kdam” gần âm hơn là “prek pedao”. Tuy nhiên, theo cách nói của ông Nguyễn Văn Đính thì ta biết “chắp kdam” là một động từ, mà trong việc đặt tên cho các địa danh, người ta ít sử dụng động từ mà thường sử dụng danh từ hơn. Do đó, cách lý giải của nhà nghiên cứu Sơn Nam lại nghe có vẻ hợp lý hơn.
Năm mươi năm đi qua, ai không biết An Giang hiện nay là vựa lúa của miền Tây. Những chàng “Chắc cà đao” ngày nào không còn tồn tại. Vào thời buổi kinh tế thị trường, những anh nông dân An Giang đã trở thành những “cậu hai Long Xuyên” ăn chơi không kém “anh Hai Sài Gòn”. Có dịp về ngang vùng Long Xuyên, ghé lại một nhà hàng bên đường, thưởng thức những món đặc sản vùng nước nổi như ốc, rắn, chuột đồng hoặc thịt trâu hấp hèm… bên cạnh những cọng hẹ mỏng tang, cọng bông súng giòn rụm, lại được nghe tiếng đàn kìm và sáu câu vọng cổ đặc sệt Nam bộ mới thấy sự thay đổi của xứ sở này như thế nào…
Những ai đi Châu Đốc thường ngang qua địa danh này ,khởi từ Long Xuyên theo quốc lộ 91 đến thị trấn An Châu thuộc huyện Châu Thành, chỉ hơn 6 cây số sẽ gặp một cây cầu tên là cầu Chắc Cà Đao, bắc ngang qua con kênh cùng tên. Vùng đất hai bên con kênh dài hơn 15 cây số này được gọi là làng Chắc Cà Đao, nhưng bây giờ ít ai dùng địa danh có nguồn gốc Khơme ấy nữa, người ta thích dùng tên “sang” và hiện thực hơn, tùy vị trí, khi là thị trấn An Châu, khi là xã Hòa Bình Thạnh, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Tóm lại, không chỉ có thật, Chắc Cà Đao còn là vùng cửa ngõ trung tâm của huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, với tên gọi thị trấn An Châu.
.

MÙA XUÂN TRONG KÝ ỨC TÔI

 

     


                      

                                                                                                                            Nguyenuthang

        Tôi xa Hà Nội sau khi ăn Tết Giáp Ngọ 1954 .Tôi còn nhớ tháng chạp năm đó, trời tự dưng trở rét . Những ngày cuối năm thời tiết càng lạnh hơn, ngủ đắp hai lớp chăn bông vẫn còn rét. Sáng dậy bước xuống giường lạnh cóng chân tay,tôi không dám rửa mặt mà chỉ lấy khăn nhúng vào nước nóng vắt nhẹ rồi lau.Sau đó súng sính chiếc aó len dài tay mà bà nội tự tay mặc cho, tôi chạy ra cửa chùa Bà Ngô gần nhà tìm mua quà sáng.

      Trước cổng chùa, vỉa hè rất thoáng nên có nhiều hàng rong tụ họp .Thường ngày tôi hay ăn xôi. Hôm nào rủng rỉnh tiền ,tôi mới dám chạy sang bên kia đường làm tô phở .(Trời rét mà ăn quà ở Hà Nội,thì theo tôi không món nào ngon hơn phở). Móc trong túi ra những đồng hào dành dụm gom nhặt cả tuần, tôi gọi một tô chín nạm vè. Trong lúc chờ đợi, tôi thích dõi mắt nhìn ông hàng phở.Tay ông thoǎn thoắt như múa: đầu tiên ông trụng bánh phở vào nồi nước đang sôi ,xóc xóc vài cái đổ ra bát, bốc thịt bò, rắc hành ngò, chan nước dùng nóng hổi... Khi bát phở đã dọn ra trước mặt ,thằng bé tôi không ăn ngay mà ngồi hít hà mùi thơm quyến rũ của phở ,cho hương vị phở lan tỏa khắp ngũ tạng rồi mới cầm đũa .

         Thông lệ, chiều 27 tết , bà nội mới phát lệnh gói bánh chưng. Nhà nội tôi trở lên nhộn nhịp hơn bao giờ hết vì các cô chú tụ về gom gạo thịt,lá dong…để nấu chung. Đông người nên thùng nấu bánh rất lớn .Bếp nấu là những viên gạch thẻ xếp thế kiềng ba chân đặt ở sân giữa ,phía trước cây hương .Bánh nấu suốt đêm ,đến sáng mới vớt ra bày từng cặp trên cái bàn ăn lớn .Ông nội cho để một  tấm ván to lên trên và dùng hai cái cối đá to đùng để ép cho bánh ráo nước .Sau tám tiếng ,bánh chưng mới được phân chia cho những người góp nấu mang về nhà. Bao giờ tôi cũng  là người nếm bánh chưng tết đầu tiên vì cuối buổi gói ,thế nào bà nội cũng nhín tay ưu aí gói cho riêng cho thằng cháu đích tôn một cái nhỏ với nhân bánh rất đặc biệt, ngon khỏi chê .

         Sáng hôm sau,tức 28 tết ,lúc gần trưa thì bố mẹ tôi và mấy đứa em từ Hải Phòng mới đến bằng tàu hoả .Đây là cơ hội anh em tôi tụ họp chơi đùa cùng nhau . Tôi đưa mấy đứa em đi dạo chơi ngoài Giám ( Quốc Tử Giám ). Nhà ông bà nội tôi ở cuối phố Sinh Từ ( Nguyễn Khuyến bây giờ ) nên chỉ đi bộ dăm phút là tới. Ngó mãi mấy cái bia đặt trên các con ruà khắc những chữ nho ngoằn ngoèo hay chạy đuổi bắt mấy con chuồn chuồn ngô hoài chẳng được cũng chán,tôi dẫn chúng đến cái miếu nhỏ nằm ở cuối Giám .Ngôi miếu nhỏ nhưng đầy người .Chỉ nhìn qua là tôi biết đang có người lên đồng .Len lách mãi tôi cũng dắt các em lọt qua hàng rào người đứng ngồi chen chúc quanh chiếc chiếu hoa trước bàn thờ, nơi có “cô đồng “đang ngồi lắc lư  với chiếc khăn đỏ chùm trên đầu .Chúng tôi chờ cả nửa giờ thì “ cô “mới “thăng” .”Cô” nhảy tưng tưng ,múa tay vung vẩy theo tiếng đàn í e réo rắt và tiếng chiêng chập chập ,cheng cheng .Sau cả mười lăm phút ,dáng chừng mỏi “cô” mới ngồi xuống .Đây là giây phút mà tôi chờ đợi vì “cô “sẽ ban phát lộc , tức là những đồng tiền giấy mới toanh được gấp xoắn thành những chiếc quạt hay con bướm ,con chim ...Mọi người xúm lại nịnh để “cô” phát lộc cho mình .Hôm ấy “cô” vui hoặc anh em chúng tôi gặp hên hay sao mà khi hết lộc rồi “cô’ còn mở tráp lấy ra một xấp tiền mới phát thêm.Thế là nhiều người xem bữa đó ngồi gần đều có lộc trong số có tôi. Có tiền ,tôi dắt các em ra trước Giám làm mấy đĩa gỏi bò khô ,thứ quà Hà Nội ăn chơi mà ngon đáo để .Sau này ăn ở miền Nam tôi không thấy người  nào bán món gỏi bò khô có mùi vị hấp dẫn như thế. Chỉ cần nghe những tiếng kéo cắt thịt bò khô cách cách từ xa là tôi đã thèm ứa nước dãi đầy miệng .

       Sống với ông bà nội ,tôi nhận ra trong các công việc chuẩn bị đón Tết, quan trọng nhất là cúng giao thừa. Bàn thờ lễ giao thừa phải đặt ở ngoài sân . Hai bên bát nhang có hai ngọn nến trung màu đỏ. Lễ vật gồm có con gà, bánh chưng, mứt , kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu và không thể thiếu được giấy bạc, giấy tiền, vàng mã. Đặc biệt gà cúng phải là gà trống thiến và bao giờ ông nội tôi cũng tự tay cắt tiết và làm gà .Khi kim đồng hồ chỉ đúng 12 giờ, tức thì tiếng chuông chùa Bà Ngô đổ liên hồi, rồi pháo nổ không ngớt từ nhà này sang nhà khác.Ông nội tôi khăn áo chỉnh tề,bước ra trước  bàn thờ thắp nhang khấn lễ cầu xin đất trời, thần thánh phù hộ cho gia đình có một năm may mắn, bao nhiêu sự không may của năm trước hãy đi qua. Bà nội ,bố mẹ tôi và các cô chú khác lần lượt nối tiếp nhau ra đứng khấn vái , mỗi người đốt một nén nhang .

         Sau lễ giao thừa ,ông nội tôi mở một quyển sách lịch toàn chữ Tàu để chọn giờ, chọn hướng cho việc xuất hành lễ chùa và hái lộc đầu năm .Chỉ có bà nội và một vài người lớn được cho đi theo .Ông tôi vào nhà soạn bút mực chuẩn bị khai bút mừng xuân .Còn tôi và các em được mẹ dắt vào phòng , bắt phải ngủ .Mẹ bảo ngủ để ngày mai mới có sức dậy sớm chúc tết ông bà ,cha mẹ đúng giờ,nếu không dậy trễ thì “dông” cả năm .

         Năm nay xuân lại về trên khắp mọi miền đất nước .Không khí tết bây giờ khác xưa, không có tiếng pháo nổ vang nhưng trong tôi vẫn rạo rực cảm nhận sự chuyển mình của thiên nhiên , vạn vật .Tất cả đang xao động đổi thay trước thềm xuân mới .          

      Hồi tưởng lại hình ảnh những ngày tết Hà Nội năm xưa , tôi thấy lòng mình se lại. Ông bà ,cha mẹ không còn nữa nhưng tôi vẫn hình dung ra từng lời nói ,việc làm của các người mỗi khi năm hết,tết đến .Dù cho cuộc sống có thay đổi, phát triển đến mức độ như thế nào, nhưng những tập tục ,lề thói của cha ông vẫn cần được lưu giữ và truyền lại cho con cháu và trở thành truyền thống cho thế hệ mai sau. Mỗi năm trôi qua có nhiều chuyện buồn để lại nhưng cũng có biết bao cái được ,cái mới đáng nâng niu trân trọng.Vậy thì sao chúng ta không lạc quan tin yêu vào tương lai thay vì  phải buồn trước sự đột biến quá nhanh hoặc cái phản diện lai căng nào đó trong cuộc sống muôn mặt của thế giới hôm nay  ?

 

 

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..