22 thg 8, 2018

BẠN CÓ THỂ SỐNG ĐƯỢC BAO LÂU ?

Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu: Bạn có sẵn sàng muốn thử?

Vân Hồng | 
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử?

         Theo các nhóm nghiên cứu, đây là 3 tiêu chí quan trọng để đánh giá một người có khả năng sống thọ hay không. Nếu bạn đáp ứng đủ 3 chỉ tiêu này thì xin chúc mừng, hãy chăm sóc tốt.

Có nhiều người thường xuyên xem đường chỉ tay trên lòng bàn tay dài hay ngắn để đoán tuổi thọ, nhưng cách này gần như ít có cơ sở để đoán được bản thân có thể sống được bao lâu.
Nếu chúng ta muốn xem tuổi thọ của bản thân từ những bằng chứng khoa học cụ thể, như chức năng của các cơ quan nội tạng, mạch máu, các bộ phận khác trên toàn bộ cơ thể, thì đây cũng là cách thật sự khó để có thể áp dụng.
Vậy làm thế nào bạn có thể dự đoán được bản thân mình có thể sống được bao lâu? Nghiên cứu khoa học hiện đại cung cấp cơ sở phán đoán khoa học và đáng tin cậy sau đây, bạn có thể tham khảo.
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử? - Ảnh 1.
Làm thế nào để dự đoán một người có thể sống được bao lâu? 3 chỉ số này rất quan trọng!
1. Tốc độ bước chân nhanh hay chậm
Tốc độ đi bộ nhanh hay chậm là một trong những tiêu chí đầu tiên để đánh giá khả năng sống thọ của một người. Điều này liên quan chặt chẽ đến sức mạnh cơ bắp, chức năng tim mạch và trạng thái tinh thần.
Theo kết quả nghiên cứu, trong số những người cao tuổi có tốc độ đi bộ chậm, tỉ lệ tử vong sớm hơn chiếm 77%.
Nhóm thứ 2 có tốc độ đi bộ trung bình có tỉ lệ tử vong sớm hơn tương ứng là 50%, trong khi nhóm đi bộ với tốc độ nhanh có tỷ lệ tử vong chỉ 27%.
Một nghiên cứu khác ở Anh cho thấy, những người lớn tuổi có khả năng đi bộ với tốc độ chậm hơn mức trung bình, thường dễ bị trầm cảm hơn.
Vì vậy, làm sao để có thể đánh giá tốc độ đi bộ của bản thân là nhanh hay chậm? Tiêu chí để đánh giá điều này chính là tốc độ đi bộ trung bình 53 mét/phút.
Nếu một người không thể đi bộ với tốc độ 53 mét/phút và tốc độ không ổn định khi đi bộ, điều đó có nghĩa là chức năng cơ thể của người đó rất kém, và nó có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ.
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử? - Ảnh 2.
2. Sức mạnh khỏe/yếu của nắm tay (lực kéo)
Sức mạnh của nắm tay chỉ việc bạn cầm nắm một vật nào đó có khả năng dùng lực mạnh hay yếu, đây cũng là một chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe.
Một nghiên cứu chung được thực hiện bởi nhiều quốc gia cho thấy rằng sức mạnh của lực nắm là một yếu tố dự đoán nguy cơ tử vong tốt hơn so với chỉ số huyết áp tâm thu.
Nếu sức chịu đựng giảm 5 kg, nguy cơ tử vong do bệnh mãn tính tăng 16% và nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ tăng tương ứng là 7% và 9%. Ngược lại, người có lực nắm của bàn tay càng cao thì sẽ có một trái tim khỏe mạnh hơn.
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử? - Ảnh 3.
Làm thế nào để đo lực nắm của bàn tay đúng cách? Bạn có thể mua một chiếc lực kế (máy đo sức nắm của bàn tay). Khi đo trắc nghiệm, nên chú ý giữ cho cơ thể thẳng đứng, hai vai và cánh tay buông xuống, trong khi 2 chân tách ra 2 bên trong tư thế đứng vững thoải mái.
Dùng lần lượt từng bàn tay nắm lấy dụng cụ đo và kéo/bóp thật mạnh nhất có thể để đo chuẩn theo lực kế, chỉ số cao nhất bạn có thể lấy làm kết quả.
Thông thường, bạn nên đo ít nhất 2 lần, kết quả cao hơn bạn nên chọn làm kết quả chính.
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử? - Ảnh 4.
Dụng cụ rèn luyện sức mạnh lực nắm tay, lực kéo
3. Độ dày mỏng (béo/gầy) của cơ thể
     Hầu hết ai trong chúng ta đều biết rõ tầm quan trọng của cơ thể đối với sức khỏe tổng thể, đặc biệt là chị em phụ nữ, cơ thể cân đối chính là chìa khóa quan trọng giúp mỗi người nổi bật và tự tin hơn.
Tuy nhiên, điều bạn cần lưu ý rằng, việc theo đuổi để có được cơ thể với số đo lý tưởng không chỉ phục vụ cho vẻ đẹp bề ngoài, mà còn cho sức khỏe thật sự bên trong.
Cơ thể gầy hay béo, dày hay mỏng còn là một trong những tiêu chí đánh giá sức khỏe và tuổi thọ của chính người đó.
Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, những người có cân nặng vượt mức trung bình (béo) thì yếu tố nguy cơ gây ra bệnh tim mạch và mạch máu não tăng 7%, và nguy cơ đột quỵ và suy tim tăng gấp đôi. Ngoài ra, nguy cơ ung thư ở những người thừa cân cũng sẽ tăng lên.
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử? - Ảnh 5.
         Vì vậy, tất cả mọi người nên cố gắng khống chế trọng lượng của bản thân đạt đến mức tiêu chuẩn. Để tìm hiểu xem trọng lượng cơ thể của bạn có đạt tiêu chuẩn hay không, hãy tham khảo công thức trọng lượng sau đây:
Chỉ số khối cơ thể (BMI) = trọng lượng/chiều cao bình phương (đơn vị khối lượng là kg, đơn vị chiều cao là m). Bảng tham khảo chiều cao cân nặng đã được đề cập rất nhiều, bạn nên ghi nhớ và áp dụng vào cân nặng của bản thân.
Trắc nghiệm 3 tiêu chí quan trọng xem bạn có thể sống bao lâu:  Bạn có sẵn sàng muốn thử? - Ảnh 6.
Phân tích chỉ số:
Dưới 18,5: Hơi gầy, thiếu cân
18,5 - 24,9: Bình thường, lý tưởng
25 - 29,9: Thừa cân
30 - 34,9: Béo phì
Trên 35: Béo phì quá mức
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một số nhóm người đặc biệt, chẳng hạn như người già, không nên kiểm soát cân nặng quá khắt khe, không nên để bản thân quá gầy. Khi bị thừa cân, nếu bạn cần giảm cân, bạn nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ.
*Theo BS Gia đình (TQ)

18 thg 8, 2018

TIẾNG LÓNG -TIẾNG LÓNG SÀI GÒN -TIẾNG LÓNG MỚI VIỆT NAM

                                                                                                    TIẾNG LÓNG   
Tiếng lóng là một hình thức phương ngữ xã hội không chính thức của một ngôn ngữ, thường được sử dụng trong giao tiếp thường ngày, bởi một nhóm người. Tiếng lóng ban đầu xuất hiện nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn đạt theo quy ước chỉ những người nhất định mới hiểu. Tiếng lóng thường không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát ra mà mang ý nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng.

Theo GS.TS Nguyễn Văn Khang, nguyên Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, tiếng lóng là loại ngôn ngữ mang tính nhóm xã hội. Khi nào xã hội tồn tại các nhóm thì đương nhiên có ngôn ngữ của các nhóm đó, có cư dân mạng thì sẽ có ngôn ngữ mạng. Trước đây, người ta cho tiếng lóng là xấu, vì đó thường là thứ ngôn ngữ mà những băng, nhóm bất hảo sử dụng. Bây giờ, tiếng lóng được mở rộng đến đa số nhóm xã hội, sinh viên có tiếng lóng của sinh viên, học sinh có tiếng lóng của học sinh... Trong xã hội hiện đại, tiếng lóng phát triển mạnh ở giới trẻ và hiện tượng này xảy ra ở tất cả các nước chứ không riêng gì Việt Nam. Như ở Mỹ, người ta gọi tiếng lóng là "ngôn ngữ đường phố", "ngôn ngữ của giới trẻ" và có người còn đùa rằng, ai muốn trẻ lại thì nói thật nhiều tiếng lóng. Thanh niên Việt Nam hiện nay thích sử dụng tiếng lóng, coi nó như là một thứ mốt, có thể tạo ra một cái gì đó mang nét riêng, đặc thù của nhóm.

                  Tiếng lóng Sài Gòn
         Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.
Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”. Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn thời chiến, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn. Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó,mà người nghe không muốn nghe thêm nữa.
Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là “mã tà”, vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arriere; tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. Ði chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch”, hách dịch tự cao gọi là “chảnh”.
Tiền bạc gọi là “địa”, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là “xù”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu”, có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Ðào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương”, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la… ghi” tức uống café thiếu ghi sổ…Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi “nhật trình”. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là “tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là “tin chó cán xe”, tin quan trọng chạy tít lớn gọi là “tin vơ-đét” vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là “xào bài”, truyện tình cảm dấm dớ gọi là “tiểu thuyết 3 xu”, các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là “báo lá cải”. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa”, nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là “tin Cá tháng Tư”.
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Ðó là “tịch”, “hai năm mươi”, “mặc chemise gỗ”, “đi auto bươn”, “về chầu diêm chúa”, “đi buôn trái cây” hay “vào nhị tỳ”, “nhị tỳ” thay cho nghĩa địa và “số dách” thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là “vòng vo Tam Quốc”, ai nói chuyện phi hiện thực gọi là “chuyện Tề Thiên”, tính nóng nảy gọi là “Trương Phi”. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là “Nhạc Bất Quần” tức ám chỉ người ngụy quân tử, đạo đức giả, gọi là “Ðoàn Chỉnh Thuần” tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé… Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng “ăn theo” mà ra đời. Thời Mỹ đến thì một tiếng “OK Salem”, mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là “sén” hay “chó lửa”, dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu” còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ “dân chơi cầu ba cẳng” thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng”? Ðó cũng là lúc các tiếng lóng như “dân xà bát”, “anh chị bự”, “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “anh hùng xa lộ”, bị bắt gọi là “tó”, vào tù gọi là “xộ khám”. Bỏ học gọi là “cúp cua”, bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn”, thi hỏng gọi là “bảng gót”. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè” trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như “chà đồ nhôm” tức “chôm đồ nhà”, “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức “Tây ba lô đi xe xích lô”. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn”, hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng “lu bu” để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do không rõ ràng để trốn việc. Ðể tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó”, gọi chiếc xe Honda là “con rim”, gọi tờ giấy 100USD là “vé”, đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi”, xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố”, gọi người lẩm cẩm là “dở hơi”…
Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của “không – ai – mời – ai”. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói “lemon question” tức chanh hỏi – chảnh – (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: lê-mông-wét-trần!).
___________________________________________________________________________________
         Tiếng lóng mới ở Việt Nam.
Chảnh: kênh kiệu.
Tám: nhiều chuyện.
Vô tư (từ ngoài Bắc): nhiều (?), thoải mái (?).
VD: Ăn uống vô tư nhé!
Huệ (phát âm: "quệ" mới đúng : cải lương, "sến".
Vi tính (computer): làm như hay lắm, ra vẻ ta đây.
VD: Thằng ấy vi tính lắm cơ , lúc nào cũng đệm tiếng Anh khi nói chuyện.
Tinh vi: ra vẻ ta đây.
Trắng phớ: nói thẳng ra đi.
Không hề: không sợ, không bi.
Bập: Bố mày mới bập ( lấy) của ông bà già một con deam( còn gọi là dem).
Ứ chịu : không chịu.
Cực kỳ: rất đẹp.
Rước: Mua Về.
Oách: trông.
Hơi bị: diễn tả mức độ hơn trung bình và dưới múc quá cỡ 1 chút. VD: Cái này hơi bị khó hiểu à nghen.
Xiềng: khi muốn khẳng định một sự việc gì mà người nói tin là chắc chắn 100%.
Vd: Mi có chắc là như vậy không?
Phơ: phê
Bà cố: có nghĩa là nhiều, quá, thí dụ như:
con nhỏ đó đẹp bà cố luôn, thằng đó nói chuyện xạo bà cố.
Củ chuối: (tiếng bắc) có nghĩa là "đểu" ví dụ: thằng đó củ chuối chết mẹ (tức là thằng đó đểu chết mẹ).
NATO = never action talk only. Ví dụ: thằng đó nằm trong khối NATO (chỉ biết nói chứ không biết làm).
Chuồn chuồn là chỉ đàn ông, còn bươm bướm là chỉ đàn bà. Giữa giữa là hi-fi /hai-fai/.
Lác: ba xạo.
Dẹo: có nghĩa là mồi chài ai được món đồ gì đó.
Vd:
Con nhỏ đó mới dẹo được thằng bồ nó chiếc xe honda.
Nhão: ỏng ẹo, điệu đàng, làm dáng, không được tự nhiên.
Vd: Nhỏ đó nói chuyện nhão quá trời.
Bèo: rẻ mạt, rẻ thí dụ như thằng đó mới mua được cái xe giá thiệt là bèo.
Không có cửa: (thường chỉ áp dụng trong tình cảm only) có nghĩa của từ này là không thể nào, thí dụ như thằng đó muốn cua tao hả, không có cửa đâu mày.
Rối: no way out, tình cảm của tụi nó dạo này hơi bị rối.
MBA = Married but available! Ví dụ: cha nội đó hả, khoái làm MBA!
Cháy IC: nghĩa là, chịu không nổi.
Ví dụ: thôi hổng dám đâu! đi xa như dzậy "cháy IC sao"?
           Theo nguồn từ  Lê Văn Sâm 

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..