28 thg 4, 2017

TÊN ĐƯỜNG SÀI GÒN TRƯỚC 1975

     Những người xa quê hương vài chục năm trở lại Sài Gòn thật khó mà tìm ra đường phố cũ.Vẫn còn đâu đó vài tên đường cũ nhưng đã bị hoán đổi sang vị trí khác và hầu như chẳng tương quan gần gũi gì với những tên đường kế cận,cũng chẳng có lớp lang mạch lạc hoặc tương xứng khi nhìn về tổng thể.Đó là chưa xét đến việc đường phố mới mang những tên nhiều người còn xa lạ hoặc những con số trùng lắp ngay trong một quận.Nhưng đường phố Sài Gòn trước 1975 thì khác,việc chọn đặt tên đường là cả một công trình được nghiên cứu tinh tế ,sâu sắc của một người vừa có đầu óc khoa học vừa có trình độ uyên bác về lịch sử.Để thấy rõ điều đó,mời các bạn đọc bài viết dưới đây :

NHÀ VĂN THUẦN PHONG NGÔ VĂN PHÁT và VIỆC ĐẶT TÊN  ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN NĂM 1956
                                                   Nguyễn văn Luân

           Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho chính phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. 
Để đánh dấu việc dành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sàigòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi. 
      Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ. 
         Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ. 
        Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả. 
         Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với điạ thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khiá cạnh vừa tình vừa lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là ông có ý ấy:
·                         Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
·         Đường đi ngang qua Bộ Y Tế      thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
·         Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sàigòn. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
·         Đại lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sàigòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
·                            Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
·                   Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
·                        Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
·                      Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
·                    Bờ sông Sàigon được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông cổ, chống Nhà Nguyên cuả Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
·                       Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi      với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Saigon, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
·                            Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
·                           Trường nữ trung học Gia Long lớn nhất Sài gòn thì, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn     làm một chút gì cho trường nữ trung học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
·                    Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng có lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.
           Ông Nhà Văn - Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc. Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô văn Phát đã về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức mà ông đã làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này. 

______________________________ _________

Tiểu sử nhà văn Tố Phang
Tố Phang trên thật là Ngô Văn Phát (1910 - 1983), là nhà văn, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Khi viết, ngoài bút hiệu Tố Phang, ông ...

*** Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. 
Thuở nhỏ học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ nữ tân văn, họa mười hai bài Thập thủ liên hoàn của Thương Tân Thị... Có lúc ông dạy Việt văn tại trường Pétrus ký Sài Gòn. 
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia - Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn. 
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du). 
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ. 

Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn. 

23 thg 4, 2017

TÌNH NGHĨA NGƯỜI SÀI GÒN


Sài Gòn, đi đến đâu cũng thấy chữ "tình"
 

Người Sài Gòn luôn biểu hiện tấm lòng cao đẹp của mình trong nếp sống hằng ngày, người có công góp công, người có của góp của, để giúp nhau khiến cuộc sống trở nên nhẹ nhàng hơn.
Người ta thường nói Sài Gòn dễ sống, người Sài Gòn dường như cái hào sảng, khí khái nó ăn vào trong máu thịt nên họ “chịu chơi” hết chỗ nói. Sài Gòn văn minh mà nghĩa tình, chưa bao giờ tỏ ý từ chối bất kì ai chọn nơi đây là đất sinh nhai. Nó cứ trao đi sự tử tế của mình mà không cần biết, người nhận lại là thân quen hay xa lạ.
Mình cùng xem người Sài Gòn mình tốt bụng đến cỡ nào nghen!





  
Dạo một vòng các tuyến phố ở Sài Gòn, chắc không quá khó để bắt gặp tấm biển “Bơm vá, sửa xe. Người khuyết tật bơm vá miễn phí”. Hành động dù nhỏ không đáng là bao nhưng đủ khiến nhiều người cảm thấy ấm lòng.



Có lẽ con dốc này đã nhiều lần gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông, vì thế người dân tại đây đã viết nên một tấm biển cảnh báo, nhắc nhở.


Bản chỉ đường “có tâm”, khi vừa hướng dẫn cụ thể, vừa đề dòng “Cảm ơn!” bên dưới. Chỉ việc đi theo cái mũi tên, để ý cái tòa nhà mẹ bồng con, vàng vàng cao cao là biết bệnh viện Từ Dũ.



Ai có gì góp nấy, là chai dầu gió, vỉ thuốc nhức đầu, đau bụng… vậy là thành cái tủ thuốc nho nhỏ cho người lao động nghèo “trái gió trở trời” bỗng dưng đau yếu ngoài đường.

Nước uống miễn phí thì khỏi nói, đếm không hết trên đường phố Sài Gòn.



Thi thoảng thấy có chị bán vé số ghé lại uống, xong còn rót đầy một bình nhỏ đem theo; có chú chạy xe ôm cũng tạt vào “làm ly” giữa thời tiết nắng nóng.


Hình ảnh cắt tóc hè phố từ lâu đã trở nên quen thuộc đối với nhiều người dân trên con đường Thành Thái. Mỗi sáng thứ hai, tại một góc đường cạnh Viện Tim, người dân đi qua đây ai cũng thích thú với hình ảnh cắt tóc miễn phí ngay trên vỉa hè. Chỉ với vài chiếc ghế nhựa, bộ dụng cụ treo trên gốc cây gần đó, các bạn trẻ đã dựng nên một salon hè phố đậm chất Sài Gòn.



Có sửa nón miễn phí, còn thêm dòng chữ hết sức dễ thương: “Bà con đừng ngại”


Từ cuối tháng 4/2016, tủ quần áo miễn phí “Tặng Mẹ và Bé” trên đường Cộng Hòa (Quận Tân Bình) nhanh chóng được mọi người chú ý vì sự độc đáo và dễ thương ẩn đằng sau nó.

Anh Quốc Ân (Hóc Môn) sau khi chọn được cho mình một chiếc áo khoác, tiếp tục chọn đầm cho vợ. Anh cười: “Bả thích mặc đầm nên lựa cho bả mấy cái.”

Quán cơm miễn phí ấm lòng người lao động nghèo ở Sài Gòn. Ở Sài Gòn, không có tiền, người ta vẫn sống được.



Quầy sửa giày miễn phí của một người không dư giả gì thể hiện tấm lòng phóng khoáng của người Sài Gòn.


Vì sợ cô lao công có thể bị thương khi cầm phải mảnh thủy tinh, một bạn trẻ ở Sài Gòn đã dán mẩu giấy lên túi rác kèm lời nhắn chân thành: “Cô ơi, trong túi có miểng chai, cô cẩn thận!”.


”Mình bị rớt ví lúc gửi xe khi đi dự triển lãm tại một trường đại học, lúc đó mình không hay biết gì luôn, đến khi xuống lấy xe đi về thì thấy xe mình bị đẩy ra một góc khác biệt với các xe còn lại, còn trên xe thì đính kèm tờ giấy này đây” – là chia sẻ của người mất ví trong câu chuyện trên.


Rau củ quả ngoài chợ giờ không đảm bảo an toàn, thôi thì cứ cắp rổ ra đây cắt mớ lá về làm tô canh. Chủ nhà còn chu đáo để sẵn cây kéo, ai muốn ăn cứ việc cắt, miễn đừng làm tổn hại đến cây để người sau còn có cái để ăn là được.
  


Mới xuất hiện gần đây, nếu có dịp đi qua hẻm 660 Hồng Phong (Quận 10), chúng ta sẽ bắt gặp một tấm bảng có dòng chữ đỏ nổi bật “Cháo thịt bằm miễn phí”.

 Chị Hiền – chủ nhân của nồi cháo từng chia sẻ: “Nhà chị chẳng khá giả gì, nhưng chị đủ khả năng để mỗi ngày nấu một nồi. Các em nhìn thấy chị tất bật với việc bán cà phê rồi nấu cháo, múc cháo tặng mọi người, nhưng thật ra đây là niềm vui mỗi ngày của chị. Nó giúp chị có một ngày ý nghĩa hơn.”
\Và còn rất nhiều, kể hoài chẳng hết về mảnh đất đầy tương thân tương ái này. Đôi khi, chúng ta vẫn hay bắt gặp người ta mua giúp tấm vé số cho một cụ già, còn cho thêm ít tiền để cụ có thể về nhà sớm hơn một chút.
Hay bất kể ai ra đường, cũng đều từng nghe lời nhắc “Đá chống kìa” của một người xa lạ. Đó là những điều rất nhỏ nhặt nhưng khiến con người ta thêm tin vào thứ gọi là sự tử tế giữa cuộc sống quá đỗi xô bồ này.
Người Sài Gòn có câu cửa miệng ngắn gọn và bình dị lắm: “Làm phước”, nghe giản đơn và nhẹ bẫng đến lạ. Những con người trao và nhận sự tử tế, có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau giữa đất Sài thành rộng lớn. Nhưng những nghĩa cử ấy, luôn đọng mãi trong tim, trong tâm trí của người dân nơi đây, để bất cứ ai đi xa cũng nhớ về.
Ai bảo con người Saigon bây giờ vô cảm, thờ ơ ?

22 thg 4, 2017

THƠ TẾU VỀ ĐỊA DANH SÀI GÒN


                

             CÁC ÔNG, CÁC BÀ


             Chuyện rằng từ thuở xa xưa
             Ông bà ta đã dây dưa ái tình
             Bởi thế nên tục truyền rằng    :


  Ông Lãnh, Ông Tạ, Ông Đồn
  Ba người bạn thiết sớm hôm một nhà
  Ông Lãnh bản chất thiệt thà
  Thầm yêu nét đẹp mặn mà Bà Đen
  Nhưng nào ông dám bon chen


     
                                                                         Núi Bà Đen

 Sáng đêm chong đèn nhung nhớ thiết tha
 Ông Đồn bản tánh nguyệt hoa
 Chờ Ông Lãnh kẹt, cà rà Bà Đen
 Hai người xả láng một phen


Thị Nghè

Sinh ra bé gái đặt tên Thị Nghè
Ông Lãnh nghe nói, thuê ghe
Đi thăm cho biết Thị Nghè ra sao
Ngó gần nó cũng bảnh bao
Nhìn xa nó cũng hao hao Ông Đồn
Bà Đen từ dạo sinh con
Vốn đã đen sẵn nay còn hơn xưa
Ông Đồn nhìn vợ hết ưa
Bỏ lên Long Khánh say sưa miệt mài
Bà Đen ngẫm nghĩ chán thay
Cũng đi lên núi đêm ngày thở than
Thương cho đứa cháu lầm than
Ông Lãnh hào hiệp cưu mang đem về
Buồn cho cuộc sống ê chề
Một già một trẻ bốn bề cô đơn
Ông bèn thẳng xuống Hóc Môn



                                                            Chợ Bà Điểm

Cưới luôn Bà Điểm để chôn cuộc đời
Qua bao vật đổi sao dời
Bà Đen ở vậy cho vơi nỗi lòng
Chỉ còn Ông Tạ lông bông
Bạn bè lấy vợ nên chồng đã lâu
Cô Giang sắp sửa ăn trầu
Cô Bắc cũng đã từ lâu theo chồng
Ông bèn đi xuống Cầu Bông
Hỏi thăm Bà Chiểu có chồng hay chưa
Bà Chiểu nghe nói bèn thưa:
“Chỉ còn Bà Quẹo là chưa có chồng
Bà Điểm tay bế tay bồng”
Buồn tình, Ông Tạ phải lòng Bà Hom
Ông bèn bao cuốc xe ôm

                
                                                  Lăng Cha Cả

Về lăng Cha Cả lo hôn lễ liền
Phụ rể có cậu Bảy Hiền
Nữ trang Chú Hỏa bạc tiền thiếu đâu
Bà Hạc thì làm phụ dâu
Chú Ía bưng quả, buồng cau, khay trầu
Bà Hom tròn mối duyên đầu
Thương cho Bà Quẹo âu sầu đắng cay
Ế chồng mấy chục năm nay
Chỉ vì cái tội thích hay làm tàng
Buồn cho nghiệp chướng bẽ bàng
Bà đành an phận chẳng màng hơn thua
Mặc cho thế sự ganh đua
Bà liền xuống tóc vô chùa Bà Đanh
Bỏ ngoài tai việc chúng sanh
Cam đành vui thú tu hành điền viên
Buồn nhất là ở Phú Yên
"Ông Chừ" hổng có tình duyên mặn mà
Tự trách số phận “con gà” (mắc dây thun)
Ông qua Cam Bốt cưới “Bà La Môn”.


Cầu Ông Chừ

Chưa hết:
Ông qua Cam Bốt cưới Bà La Môn
Tuổi em thì cũng sồn sồn
"Vệ Xa""Sát Đế" một bồ Hindu
Ngẫn ngơ vào một chiều Thu
Ông ra Thiên Mụ khấu đầu đi tu.
 ........................................................................................................................................
 Để hiểu rõ nguồn gốc những địa danh trên mời bạn đọc thêm bài viết :

           "Một số tên gọi, địa danh ở Sài Gòn mang tên Bà, Ông "

           Trong entry trước có anh bạn "nick" là Alaykum Salam, vào hỏi về những tên gọi, địa danh mang những thành tố Ông, Bà thường thấy. Bạn hỏi (đại ý), ý nghĩa thế nào về tên những dịa danh ấy? Chẳng hạn có những cầu, những chợ mang tên Bà có phải mấy Bà bỏ tiền xây cầu, chợ. hay mấy Bà hiển linh? Về tên gọi, hay địa danh có thành tố Ông như cầu Ông Dầu (trên quốc lộ 13 từ Sài Gòn đi Bình Dương), hay cầu Ông Tố (ở quận 2), bạn cũng hỏi thế.

Tôi cũng thường hay tìm hiểu về những vấn đề này, qua thực tế sống, và phần nhiều qua sách vở, xin chép ra ở đây để tạm gọi là trả lời câu hỏi của bạn Salam, và cũng là để trao đổi với các bạn, có thể các bạn sẽ có những hiểu biết khác, hoặc căn cứ những sách vở đã đọc mà có những ý kiến khác thì thật hay. Cái khó khi viết về những vấn đề có tính chất chữ nghĩa này là không thể viết theo kiểu văn chương, tùy bút, tùy cảm hứng, mà cần phải có nhiều nguồn tham khảo: tham khảo thực tế (đi điền dã tìm hiểu), tham khảo tư liệu sách vở... Càng có nhiều nguồn tham khảo để so sánh, ta càng đến được gần cái đúng.

Tôi sẽ viết về một số tên, địa danh như thế ở Saigon, là nơi tuy không sinh ra, nhưng có lẽ sẽ gắn bó với nó cả đời, để lý giải phần nào.

Ở Saigon như ta đã thấy có khá nhiều tên gọi, địa danh có từ Bà, Ông trong chữ, tôi xin kể về từ Bà trước, hì hì!  Xin kể một số từ, chẳng hạn, về từ Bà có: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hoa, chợ Bà Điểm, rạch Bà Nghè (tên cũ của rạch Thị Nghè), cầu Thị Nghè, rạch Bà Môn, rạch Bà Bèo, Bà Quẹo, cống Bà Xếp, Bà Hom (địa danh)... Về từ Ông có: cầu Ông Dầu, cầu Ông Tố, Ngã ba Ông Tạ, cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Ông Lãnh,  rạch Ông, cầu Ông Lớn, cầu Ông Bé, vườn Ông Thượng, đình Ông Súng... 

1/- Một số tên gọi, dịa danh mang tên Bà:

- Chợ Bà Chiểu, Bà Chiểu: là chợ và vùng đất ở quận Bình Thạnh, khu Lăng Ông, chợ có thể mang tên một người phụ nữ.

- Chợ Bà Hoa: chợ ở phường 11, quận Tân Bình, lập năm 1967, trong một khu vực có rất nhiều cư dân đến từ Quảng Nam (chợ có bán nhiều đặc sản vùng Quảng Nam). Nhưng theo người địa phương, thì người lập chợ là một người miền Bắc di cư, tên là Nguyễn Thị Hoa, hiện bà sinh sống tại Mỹ.

- Chợ Bà Điểm, Bà Điểm: để chỉ chợ và vùng đất thuộc huyện Hóc Môn, tương truyền bà Điểm là tên bà chủ quán nước chè  tại vùng này.

- Rạch Bà Nghè, cầu Thị Nghè, chợ Thị Nghè: rạch, cầu, và chợ để chỉ phụ nữ. Sách vở chép, tương truyền cầu Thị Nghè ban đầu bằng gỗ, do bà Nguyễn Thị Khánh, con gái Khâm sai Nguyễn Cửu Vân xây dựng, cho chồng là một thư lại qua lại khi đi làm việc (người dân gọi chồng bà là ông Nghè), khúc sông ở đây cũng được gọi là rạch Thị Nghè theo tên cầu. Ngôi chợ Thị Nghè bên dưới cầu phía bên Bình Thạnh cũng được gọi thế. gần đó còn có nhà thờ Thị Nghè.

- Rạch Bà Môn: ở huyện Bình Chánh, người địa phương (ông Nguyễn Văn Trấn) cho biết âm gốc là Bàu Môn (cái bàu có trồng cây môn nước), đọc trại mà thành.

- Rạch Bà Bèo: cũng tương tự như rạch Bà Môn, có thể là từ Bàu Bèo mà ra (bàu nước có nhiều bèo).

- Bà Quẹo: địa danh ở quận Tân Bình đi Hóc Môn. Con đường tại khu vực này có khúc quẹo rất rõ, có thể do từ Bàu Quẹo, hoặc Bờ Quẹo mà ra.

- Cống Bà Xếp: địa danh ở quận 3 khu vực có ga xe lửa Hòa Hưng, nơi có một cái cống chính của khu vực ăn thông ra kênh Nhiêu Lộc. Không rõ nguồn gốc chữ Xếp có phải là từ tên phụ nữ hay không? Nhưng có từ "Xếp" cho nên có sách giải thích "Bà Xếp" đây có thể là bà vợ ông "Sếp ga xe lửa" (Chef de gare). Có thể ngày trước ở đây có cái cống, nơi đó có nhà một bà mà ông chồng là sếp ga  xe lửa nên gọi  thế? Nhưng tại sao không gọi là "Cống Ông Xếp"? Hay "Bà Xếp" này là người bỏ tiền ra làm cái cống đấy? Như Bà Nghè làm cầu Thị Nghè? Dù sao cũng có thể xem như một cách giải thích.

- Bà Hom: địa danh ở quận 6, Bà Hom có lẽ là từ Bàu Hom (bàu ngâm hom tre) nói trại mà thành, như Bà Môn, Bà Bèo, Bà Quẹo...

2/- Một số tên gọi, địa danh mang tên Ông:

- Cầu Ông Dầu: cầu thuộc phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức trên quốc lộ 13 đi Bình Dương (Thủ Dầu Một). Không rõ có phải cầu mang tên người không? Từ tên Thủ Dầu Một (chữ Dầu ở đây để chỉ loại cây gỗ to), cũng có người suy đoán chữ Dầu là để chỉ cây, nhưng tại sao lại là "Ông Dầu"? Chữ Ông Dầu này có giống như Ông Súng viết phía dưới không?

- Cầu Ông Tố: tên đầy đủ là cầu Giồng Ông Tố ở quận 2 (Giồng Ông Tố là một địa danh). Sách vở viết Ông Tố có tên thật là Trương Vĩnh Tố, mộ ông còn ở gần chợ Bình Trưng, quận 2. không thấy chép lịch sử bản thân ông Tố.

- Chợ Ông Tạ, Ngã ba Ông Tạ: chợ và địa danh ở quận Tân Bình, nơi này có một ngã ba giao giữa 2 đường Cách Mạng Tháng 8 và Phạm Văn Hai, nên ngã ba này được gọi là Ngã ba Ông Tạ. Ông Tạ tên thật là Trần Văn Bỉ (1918-1983), lấy hiệu là "Tạ Thủ" (cánh tay nâng đỡ người bệnh), sinh thời là một nhà sư và thày thuốc nam nổi tiếng trong vùng.

- Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Ông Lãnh: cây cầu một bên là quận 1, một bên là quận 4, cầu do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng thời triều Nguyễn xây dựng, cũng có một con đường mang tên Lãnh Binh Thăng ở quận 11. Trước đây dưới chân cầu phía bên quận 1 có một cái chợ, chợ được lấy tên cầu để gọi là chợ Cầu Ông Lãnh, phường ở khu vực này cũng gọi là phường Cầu Ông Lãnh, như vậy chợ Cầu Ông Lãnh và phường cầu Ông Lãnh là từ tên cầu Ông Lãnh mà ra.

- Rạch Ông, cầu Ông Lớn, Cầu Ông Bé: là con rạch giáp ranh quận 7 và quận 8, nguyên tên là rạch Ong Lớn (con ong), vì ngày trước 2 bên rạch có nhiều cây cối thành rừng ong đến làm tổ, người dân lấy mật ra bán cạnh cầu, nói trại thành rạch Ông. Hiện nay có 2 cây cầu ở khu vực này tên là cầu Ông Lớn và cầu Ông Bé, từ tên gốc rạch Ong Lớn mà ra.

- Cầu Ông Lớn: cầu bắc qua kênh Chợ Lớn (kênhTàu Hũ) ở quận 6, khác với cầu Ông Lớn, Ông Bé vừa kể, Ông Lớn ở đây là Tổng đốc Đỗ Hữu Phương (người dân quen gọi là Tổng đốc Phương, trước năm 1975 có đường Tổng đốc Phương ở quận 5 nay là Châu Văn Liêm), một trong bốn người giàu có được truyền tụng ở Saigon đầu thế kỷ 20, qua câu "Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định". Chữ Lớn trong từ Ông Lớn chỉ để nói về chuyện làm chức lớn của Tổng đốc Phương, không có nghĩa tôn kính như Ông Thượng.

- Vườn Ông Thượng: tên cũ dân gian gọi vườn Tao Đàn ở quận 1, Ông Thượng là tên người dân gọi Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt. Trước năm 1975 con đường Cách Mạng Tháng 8 thuộc quận 1 chạy ngang qua vườn Tao Đàn được gọi là đường Lê Văn Duyệt. Lăng Ông ở quận Bình Thạnh trên cổng có dòng chữ Nho "Thượng Công Miếu" (  ). Có người cho rằng tên gọi vườn Ông Thượng, do tại vườn hoa này trước đây có gánh hát bội của Tổng trấn Gia Định lập, thường hát cho quan lại và dân chúng xem. Sinh thời Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt rất thích hát bội, đá gà. Tên gọi Ông Thượng (Thượng Công), với ý tôn kính như "chúa thượng". Thượng không phải chức vụ như tên gọi Ông Lãnh (Lãnh là chức Lãnh binh). Ở miền Tây có Cù lao Ông Chưởng, thì Chưởng là chức Chưởng cơ, để chỉ Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh.

- Đình Ông Súng: tại quận 3 gần khu đối diện nhà thờ Vườn Xoài, trên đường Lê Văn Sỹ đi ngang còn thấy tấm bảng đề tên Đình Ông Súng, có một cái giá để một cây súng nhỏ đã bị gãy, kiểu súng thần công ngày trước. Như vậy có thể thấy Ông Súng, tên gọi của ngôi đình này là một khẩu súng thần công ngày xưa chứ không phải tên người.

Trên đây là một số tên gọi, địa danh có thành tố Bà, Ông ở Saigon. qua những tên gọi, địa danh này ta có thể thấy:

a/ Tên gọi mang tên Bà, Ông:

- Như chợ, cầu do những người mang tên xây dựng hay lập ra, như cầu Thị Nghè (Bà Nghè), hay chợ Bà Hoa, hoặc cầu Ông Lãnh do Ông Lãnh, như đã dẫn. Những tên gọi xác định này thường được chép trong sách vở, hoặc trong dân gian biết rõ còn lưu truyền. 

- Để chỉ người, nhưng không phải lập ra nơi có tên gọi, chẳng hạn như chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Ông Tạ, vườn Ông Thượng, chợ Thị Nghè, nhà thờ Thị Nghè... Trong khi nhà thờ Huyện Sĩ do ông Huyện Sĩ Lê Phát Đạt bỏ tiền xây dựng. Có những tên gọi khác mà ta có thể đoán để chỉ người, như rạch Ông Cai (quận 2), rạch Ông Đội (quận 7), cầu Ông Nhiêu (quận 9), những tên Cai, Đội, Nhiêu ngày trước để chỉ chức vụ của người. Kênh Nhiêu Lộc, thì Nhiêu là Nhiêu học, Lộc là tên người.

- Cũng có những tên có thể để chỉ người (Bà) nhưng không xác định được rõ ràng, như tên gọi Bà Điểm, Bà Chiểu, hoặc như tên cống Bà Xếp.

b/ Tên gọi mang tên người (Bà) nhưng có thể do gọi trại từ nghĩa khác, như Bà Môn, Bà Bèo, Bà Quẹo, Bà Bướm (rạch ở quận 7), có thể từ Bàu Bướm nói trại ra (Bàu nước có nhiều con bướm)...

c/ Tên gọi có từ Ông, nhưng không phải chỉ người, mà để chỉ vật, như Đình Ông Súng. Dầu trong Cầu Ông Dầu có phải như trường hợp này?

Còn nhiều những tên gọi, địa danh ở Saigon mang yếu tố chỉ người, nhưng không xác định được rõ ràng có phải là để chì người hay không, vì những tên tuy gọi là Bà, Ông nhưng rất chung chung, không có thông tin từ sách vở, từ dân gian, bản thân tên gọi không gợi lên được những ý nghĩa có thể suy đoán như Bà Xếp, Bà Môn, Bà Bèo, Bà Bướm, hay như Ông Cai, Ông Đội... Ta có thể kể: rạch Bà Tàng (quận 8), rạch Bà Đô, cầu Bà Đô (quận 5), rạch Ông Cốm (Bình Chánh), sông Ông Tiêu (Cần Giờ)...

Qua những gì vừa kể, ta có thể thấy việc đặt tên gọi, địa danh ngày trước ở Saigon không theo một nguyên tắc nào cả. Bản thân tên gọi, địa danh khi có tên như thế cũng chẳng theo nguyên tắc nhất định. Cho nên khi xét ý nghĩa, nguồn gốc của tên gọi, địa danh, cần phải xem xét từng trường hợp (chẳng hạn để phân tên gọi đó vào nhóm nào trong mấy nhóm kể trên để xem xét), không thể mang cách giải thích (dù hợp lý) này để giải thích trường hợp kia (như tôi đã từng nghe có người nói Lê Văn Duyệt xưa làm chứcThượng thư, chắc họ lầm chữ Thượng trong Thượng Công Lê Văn Duyệt là chức vụ Thượng thư).

Nhân đây xin nói vui, dân nhậu có thể tếu táo nói chơi cầu Bà Đô, thì bà Đô là một bà tập... Gym (thể hình), hay cầu Bà Tàng, thì bà Tàng là một bà... dở hơi. Vậy mà đã có trường hợp tương tự được trích dẫn viết trên sách báo hẳn hoi, ấy là chuyện ông Lãnh và các bà vợ. Có thể ban đầu như đã nói, là chuyện tếu táo của mấy ông nhậu, hay chuyện tán dóc của dân lê la cà phê vỉa hè. Người ta viết như thế để minh chứng cho người dân Saigon ngày trước rất giỏi về làm kinh tế (làm ăn buôn bán). Chuyện đại khái bản thân ông Lãnh lập ngôi chợ Cầu Ông Lãnh, ông này có tới bốn, năm bà vợ, lập cho mỗi bà vợ một ngôi chợ đứng tên các bà để buôn bán, như chợ Bà Chiểu, chợ Bà Điểm, chợ Bà Hom, chợ Bà Rịa... Đến nỗi học giả Vương Hồng Sển, một người cố cựu Saigon, từng viết 2 quyển sách về Saigon là Sài Gòn năm xưa, Sài Gòn tả pín lù phải cười ngất.


Tài liệu sưu tầm trên net ( from ngochieppham.blogspot)

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..