21 thg 6, 2017

BA HỒN BẢY VÍA LÀ GÌ ?

Người Việt chịu ảnh hưởng Đạo giáo, thường nói “Tam hồn thất phách” hoặc “Ba hồn bảy vía”. Ba hồn là gì? Đạo giáo giải thích: Thứ nhất hồn Thái Quang, thứ hai hồn Sảng Linh, thứ ba hồn U Tinh. Đạo giáo không cho biết rõ công dụng của mỗi thứ hồn, chỉ nói phép nhiếp tam hồn, một phương pháp tu luyện làm cho thần khí cứng rắn, tinh hoa tích tụ, thân thể không già yếu. Suy ra ta có thể hiểu hồn thứ nhất thuộc về thần khí con người, hồn thứ hai thuộc về tinh hoa con người, hồn thứ ba thuộc về thân xác con người. Dân gian vì không hiểu sâu Đạo học nên giải nôm: một hồn ở đầu, một hồn ở ngực, một hồn ở chân. Chữ “chân” này không phải là chân cẳng hay chân với tay mà là chân thân, cái thân thể đích thực của người ấy. Tục “gọi hồn” và phép “phụ hồn” không nói rõ gọi hồn nào trong ba hồn hay cả ba hồn, vì chắc chắn họ không đủ trình độ để hiểu biết. Khi chết, con người chỉ còn một hồn Thái Quang, là tinh thần, thần khí hay linh khí, tinh anh...riêng của mỗi người. Tuy không còn thể xác, không còn mắt, mũi, chân, tay...các giác quan để làm chỗ dựa nhưng nó có khả năng nhận biết tất cả, thế mới gọi là linh hồn (hồn thiêng).

hồn vía, 3 hồn bảy vía,
                                                       Sau khi con người chết đi, linh hồn sẽ rời khỏi cơ thể.
Theo tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc: Y lý Trung Hoa nói: “Can tàng hồn, phế tàng phách” (Gan chứa hồn, phổi chứa phách). Từ lý luận ban đầu này, các nhà y học cổ điển phát triển lên thất phách: tâm phách (tim), can phách (gan), tỳ phách (tỳ vị: dạ dày, lá lách), phế phách (phổi), thận phách (2 quả thận), khẩu phách (miệng lưỡi), ý phách (bộ não). Tiến bộ hơn, họ phân định đàn ông có thất phách, đàn bà thêm thai phách (dạ con và thai nhi), huyết phách (kinh nguyệt) thành cửu phách. Đạo giáo cũng nói đến thất phách (không có cửu phách) với những tên gọi khó hiểu: Thi cẩu, Phục thỉ, Tước âm, Thôn tặc, Phi độc, Trừ uế, Xú phế. Họ nói thất phách là 7 tên quỷ độc hại trong thân thể con người, và đạo giáo có phương pháp tu luyện để chế ngự hay diệt trừ chúng, làm cho thân thể nhẹ nhàng sảng khoái bay lên trên không thành thần tiên, sống mãi không già, không chết.
Cần phân biệt rõ: thuyết tam hồn thất phách, tam hồn cửu phách của y học nhằm mục đích chữa bệnh cứu người, thuyết tam hồn thất phách của Đạo học (Đạo giáo) không ngoài việc tu luyện đắc đạo thành tiên. Thuyết tam hồn thất phách hay cửu phách của Đông y có giá trị khoa học thực tiễn. Ví dụ họ nói “Can tàng hồn” cũng như bảo “Can tàng huyết”. Khi người ta nằm ngủ hay mơ chuyện quái đản, ghê sợ là do ở huyết, huyết kém, xấu mà sinh ra vì “huyết biến vi tà”, phải chữa bệnh huyết, mà chữa bệnh huyết thì không thể quên chức năng can (gan) bởi “can tàng huyết” (gan chứa huyết)...
Tục gọi hồn nhập quan, đàn ông gọi ba hồn bảy vía hoặc đàn bà gọi ba hồn chín vía, dân gian theo thuyết Đông y là lầm lẫn lâu ngày thành thói quen, cứ bắt chước lẫn nhau, không ai đặt câu hỏi: tại sao như thế, như thế đúng hay sai? Cứ lý suy ra, người chết phổi ngừng thở, tim ngừng đập, máu ngừng chảy, mọi giác quan đều ngừng hoạt động, các tế bào bắt đầu chuyển sang trạng thái phân hủy bốc mùi xú khí...hồn phách nhập quan để làm gì, có tác dụng gì? Lại nữa, đàn bà đến tuổi 50 hết kinh nguyệt, thôi sinh đẻ, không còn thai phách, huyết phách, sao vẫn gọi “chín vía” (cửu phách)? Thuyết Đông y là cơ sở khoa học trị bệnh, chỉ áp dụng với người sống, đâu còn ý nghĩa với người chết?
Nếu theo thuyết Đạo giáo, gọi hồn người chết chỉ nên gọi “Ba hồn bảy vía” đàn ông như đàn bà. Nhưng Đạo giáo không nói rõ người chết rồi vẫn còn đủ cả “tam hồn thất phách”, mà “thất phách” là 7 tên quỷ độc tan theo thể xác, và “tam hồn” chỉ tồn tại hồn Thái Quang tức linh hồn, cái tên thường gọi. Hồn Thái Quang hay linh hồn không nhập quan trở về với xác chết, nương tựa ở xác chết. Sau khi người chết vong hồn nương tựa vào thần chủhồn bạch. Thần chủ còn gọi là thần vị, linh vị là miếng gỗ viết tên tuổi, chức tước người chết để thờ cúng mãi mãi. Nghi thức làm thần chủ của vua, chúa, quan dân khác nhau. Với dân thường, thần chủ làm theo lối đơn giản đến mức sơ sài: một thẻ tre hay một miếng giấy viết nguệch ngoạc tên tuổi, cắm vào lát chuối cây cũng xong. Gia cảnh bần cùng chỉ có bát hương bằng lát chuối cây với năm ba nén hương còn khó, nói gì linh vị và hồn bạch! Hồn bạch là dải lụa thắt lại giống như hình người đủ 3 phần: đầu, mình và chân để thu hồn vào đó, khi mai táng rước đi trước linh cữu, rồi chôn bên cạnh nấm mồ.
Linh hồn là tinh anh, là khí thiêng của con người, cái tinh thần ấy nếu không mất cũng không thể “nhập quan”, không thể nhập vào cái xác ô uế, người ta phải đào sâu chôn chặt!
Hồn phách cũng là vấn đề cốt yếu của sinh tử. Đức Khổng tử tránh bàn về sinh tử. Ngài nói: “Chưa biết được việc sống, làm sao biết được việc chết?” (Vị tri sinh, yên tri tử). Nói “tránh bàn” không có nghĩa bảo Khổng tử không đủ khả năng bàn tới. Vấn đề ở chỗ ngài tự xét thấy mình không thể đưa ra ý kiến thuyết phục trong tình hình thiên hạ bấy giờ tồn tại cả hai thuyết “Hữu thần luận” và “Vô thần luận”: Thượng đế sinh ra con người với linh hồn bất tử hay không có Thượng đế, cũng không có linh hồn bất tử?
Các nhà sáng lập tôn giáo đều đặt vấn đề sinh tử lên hàng đầu và xem đó là đề tài thú vị. Người Việt Nam tiếp nhận nhiều tư tưởng tôn giáo, trong dân gian quan niệm về sinh tử khó tránh mâu thuẫn và phức tạp. Quan niệm khá phổ biến và tương đối thống nhất: Trời sinh ra muôn loài vạn vật, con người chết không mất. “Sinh ký tử qui” là câu nói cửa miệng người đời, nhưng thói đời vẫn ham sống sợ chết, vẫn chúc tụng “Phú quý thọ khang ninh” và không thể biết mình chết về đâu một cách chắc chắn!
Chúa Giê-su tạo ra người, vật, cho người có linh hồn, vật có giác hồn, người chết tùy theo hành vi lành, dữ mà về nước Chúa, hầu hạ Chúa hay bị đầy xuống hỏa ngục, còn loài vật, giác hồn tan cùng thể xác. Phật Thích-ca không công nhận thuyết linh hồn bất tử, nhưng lại đưa ra thuyết đầu thai chuyển kiếp bằng các “Thức” Mạt-na, A-lại-gia, khác gì linh hồn? Dân gian đâu nhớ được, hiểu được mấy cái “Thức” khó hiểu, khó nhớ ấy, vẫn nói linh hồn đầu thai kiếp khác! Phật giáo truyền vào Trung Quốc ra đời tông phái Mật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều do Đại Nhật Như Lai biến hiện ra. Đại Nhật Như Lai là gì, nếu không phải là một Thượng đế, một Chúa Trời kiểu khác, mang tên khác?
Câu “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn” (Sự chết như sự sống, sự mất như sự còn; Cũng được dùng để nói việc thờ cúng: Thờ lúc chết như lúc sống, thờ lúc mất như lúc còn) là một mệnh đề triết lý, thuộc phạm trù triết học. Nghĩa là sự vật chỉ chết ở dạng này để sinh ở dạng khác, mất ở nơi nọ lại còn ở nơi kia, như chuyện vua nước Sở đánh mất cây cung, người nước Sở bắt được, có đi đâu mà mất? Nhưng dân gian lại dẫn giải theo cách dân gian: Sống như thế nào, chết như thế ấy! Tức là cũng ăn uống, làm lụng với mọi nhu cầu như lúc sống! Nói cách khác: cõi Âm là phản ánh trung thực cõi Dương, Âm và Dương tuy đối lập, mâu thuẫn nhưng vẫn nhất thống trong một khối thống nhất. Đó là nguyên nhân chủ yếu, chỗ dựa căn bản cho mọi nghi thức cúng tế ra đời và tồn tại. Mọi học thuyết, đến cả tôn giáo đều do con người mà có, tại sao không phải chính Thượng đế cũng là sản phẩm của con người?
                  (Trích "Nguồn gốc, ý nghĩa tang lễ người Việt"-NXB Thanh Hóa)
--------------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐÁNH CHUỘT

                                                                                    HOÀNG TUẤN PHỔ
Hồi tôi còn nhỏ, tạng người yếu, ăn cơm hay bị nghẹn, nấc. Mỗi lần bị nghẹn, nấc, người lớn lại chỉ tay lên nóc nhà, bảo: “Tề tề (kìa kìa) có con chuột đang chạy!”, tôi tưởng thật ngửa cổ nhìn lên nóc nhà, buột miệng hỏi: “Mô mô (đâu đâu)?” thế là khỏi nghẹn, hết nấc. Đúng là trên nóc nhà (không riêng nhà tôi) có giống chuột nhỏ tên thường gọi chuột nhà, chuyên cư trú trong mái lá. Chúng sống ở đó rất an toàn, mèo thấy cũng chẳng làm gì, tha hồ xây tổ ấm, sinh con đẻ cháu. Lợi dụng đêm tối hoặc nhân lúc ban ngày vắng vẻ, chúng di chuyển rất nhanh từ trên nóc nhà xuống và lẻn vào bồ thóc thúng gạo. Nắm được quy luật hoạt động của chuột, mèo ta thường nấp dưới gầm bồ phục kích. Có khi nó nhảy lên cót thóc đánh một giấc ngủ ngon. Thấy bóng mèo, đố chuột nào dám bén mảng tới gần. Nhưng mèo đâu có “ba đầu sáu tay”, canh giữ được bồ thóc, bỏ mất thúng gạo. Thỉnh thoảng mèo cũng kiếm được vài tên chuột dại dột, chủ quan, song chẳng thấm gì so với sức sinh sản con đàn cháu đống của giống nhà chuột. Chuột càng đông lên, thức ăn kiếm được ngày càng khó khăn. Chúng lục lọi, phá phách như giặc cả đêm khiến trẻ em dễ giật mình thức giấc mà người già cũng khó chợp mắt.
Ông nội tôi nói: “Nhà ta cả hai mái kè đều mới lợp, ít nhất phải 10 năm nữa mới cần đảo lại. Mà cái giống chuột tinh quái lắm, khi giỡ mái chẳng thấy một con, sau khi lợp lại, đâu vẫn hoàn đó. Người ta bảo: Cháy nhà mới ra mặt chuột. Đúng. Nhưng, phần đông chúng nhanh chân chạy thoát. Cho nên đánh chuột là phải đánh tận hang ổ chúng”. Rồi ông cụ bảo chú tôi đi thuê thợ rèn rèn một cái nọc để nọc chuột.
Cái nọc chuột có hai phần: phần mũi và phần cán. Phần mũi dài chừng hơn gang tay; mũi nhọn như cái gai; dưới mũi nhọn độ đốt tay là cái ngạnh trê chìa ra khoảng nửa đốt. Phần cán là một cây trúc cắt lấy đoạn gốc, dài ước vài sải tay. Cắm mũi vào cán, về phía ngọn, đánh một khâu sắt để cổ nọc được vững chắc.
Lũ chuột sống trên nóc nhà như ở trên thiên đường, bất khả xâm phạm. Từng đôi chuột đực cái châu mũi vào nhau cười đùa rúc rích. Những con chuột mới lớn ngứa răng gặm đầu rui sồn sột. Mấy lão chuột già thong dong tản bộ, phưỡn ra những cái bụng phệ trăng trắng béo mượt,... Bất kể sáng, trưa, chiều, tối, chú tôi ngồi học, dựng sẵn bên bàn cái nọc; hễ nghe tiếng động trên nóc nhà, liền cầm ngay cái nọc, chú tôi chọc mạnh một cái, trúng ngay con chuột, lôi xuống. Sau khi diệt được khoảng chục con, những con còn lại, dắt díu nhau bỏ đi hết. Máu chuột bị giết dây, dính trên tàu kè, đòn nóc, khiến chuột kinh sợ.
Do đặc tính họ nhà chuột kinh sợ mùi máu thịt đồng loại, bà con nông dân băm thịt chuột rải chung quanh bờ ruộng để chống lũ chuột đồng phá lúa.
Chuột đồng hoàn toàn giống chuột nhà. Vì ở ngoài đồng nên gọi là chuột đồng để phân biệt với chuột nhà chuyên sống trong nhà. Nói chung, tầm vóc cả hai giống đều nhỏ. Nhưng cũng có một số con lớn vượt hẳn lên to bằng hoặc gần bằng bắp tay người trung bình. Có thể chúng là giống chuột đồng to. Những mùa vụ bạch lạng, chuột đồng đói quá cũng mò vào nhà kiếm ăn, thấy dễ kiếm sống, định cư lâu dài, hóa thành chuột nhà. Ngược lại, những nhà thuộc diện nghèo, khi không còn cái gì để ăn, chuột nhà buộc phải di cư ra đồng, tha phương cầu thực, cũng phải ở hang, ở hốc, rồi thành chuột đồng.
Chuột đồng sinh sản nhanh, phát triển mạnh không kém chuột nhà. Chuột đồng phải đối phó với không ít kẻ thù: cú, rắn, cầy, cáo, lon,... Đêm, mèo ra đồng bắt cá, thấy chuột cũng bắt luôn. Một số con mèo sau khi diệt hết chuột nhà, đêm đêm ra đồng săn chuột.
Chuột đồng tự đào hang hoặc sửa lại hang cũ để ở. Câu tục ngữ: “Chuột già có ba cái hang” là rất đúng. Mỗi hang chuột trổ ít nhất hai cửa; trong mỗi hang chuột đào thêm một vào ngách để chứa thức ăn và tránh kẻ thù mà chuột sợ nhất là rắn. Hang chuột chỉ có ở những thân đất cao, vì giống chuột này ưa khô ráo, không chịu được ẩm ướt, nước nôi như chuột cống. Ban ngày chuột đồng yên chí ở trong hang với thành lũy kiên cố, đêm tối mới mò ra phá hại lúa má, hoa màu. Trước kia, bà con nông dân dùng biện pháp đem chó săn ra đồng, lấy thuổng, cuốc đào hang bắt chuột. Hễ chuột chạy từ trong hang ra đã có chó săn đuổi theo ngoặm một miếng chết tươi. Song, không thể nhà nào cũng nuôi được chó biết săn và cũng không có điều kiện để đào phá tất cả cồn, áng, bờ ruộng, bờ đường. Người ta áp dụng cách phổ biến là hun khói.
Hun khói tương đối vất vả và tốn công. Trước hết phải biết đích xác hang có chuột ở. Dùng chó săn đánh hơi. Hang nào có chuột, chó lấy chân trước cào cào, bới bới miệng lỗ và sủa ủng ẳng, kèm theo những tiếng rít. Cũng có thể quan sát cửa hang thấy những biểu hiện như đất nhẵn, in dấu chân, thải ra một vài cục phân, cỏ khô tha về làm tổ vương vãi,... Tiếp theo tìm các cửa hang khác, bịt kín, chỉ trừ lại cửa trước để hun khói và một cửa sau để đơm cái đó hoặc cái giỏ (có ton - hom) đón bắt chuột. Khoét rộng cửa hang chính, đốt rơm rạ làm than, phủ trấu lên trên, rồi dùng quạt, quạt thốc hơi nóng và khói đặc vào hang, đến tận các ngõ ngách. Người quạt phải khỏe cánh, mạnh tay, quạt hối hả không ngừng, nếu có hai người thay nhau cầm quạt càng tốt. Chuột bị ngạt khói tất phải chui ra.
Hun khói phải kiên trì. Nhiều con gan góc, lỳ lợm, khi chui ra đã ngạt thở gần chết, bước không nổi. Thế mới có thành ngữ: Lờ đờ như chuột hun khói. Song, hãy coi chừng, chỉ cần một vài tích tắc được thở bầu không khí trong lành, con chuột phải khói hồi sức rất nhanh và chạy biến.
Giống chuột lỗ bằng bắp tay, bắp chân người lớn. Nó đào lỗ ở trong nhà, tại những xó xỉnh tối, ẩm. Có lẽ nó cùng anh em với chuột cống, ở nông thôn gọi là chuột lỗ, chuyển cư lên thành thị mang tên chuột cống. Chuột lỗ nhiều con dám chống trả lại cả chó và tất nhiên, lỗ ta dám ung dung đi qua trước mũi mèo. Người ta nói: Cụ tổ họ nhà mèo bị chuột lỗ cắn chết ăn thịt nên mèo không dám bắt gà, phải để dành biếu chuột lỗ, mong được sống yên ổn. Sự thực chuột lỗ ăn ở đều bẩn mà tính mèo lại sạch, không chịu nổi mùi hôi hám, hễ thấy lỗ, mèo liền tránh xa.
Nhà tôi xưa, năm nào cũng có một vài con chuột lỗ, chẳng biết từ đâu đến đào lỗ trong buồng hoặc xó hè để ở. Hang chuột lỗ vừa sâu vừa rộng, thường không có ngách, chỉ có hai cửa vào ra. Chuột lỗ khi đào hang, đùn đất lên cả đống, hễ lấp xuống, nó lại đào lên, cứ như trong nhà tôi, nó mới là chủ. Thỉnh thoảng nó bắt một con gà lôi vào hang ăn thịt dần. Để trừ lỗ, phá hang, các chú nhà tôi cũng phải dùng cách hun khói đối với chuột đồng. Có con bị khói mò ra đến cửa hang, đụng râu vào cái ton giỏ, liền lùi trở lại. Một lúc sau, nó đội cả đống than trấu đang hun mà chui lên. Nó chơi cú bất ngờ khiến người không kịp phản ứng. Khi người ta tìm được cái gậy thì nó đã chạy mất! Cũng có con đành chịu ngạt thở mà chết trong hang. Dẫu sao hun khói vẫn là biện pháp hữu hiệu nhất đối với chuột lỗ. Sau mỗi lần hun khói, cả năm không thấy một bóng chuột lỗ.
Nếu khó dùng cách hun khói vì cửa hang không thích hợp thì dùng cái mâm gỗ cũ (xưa nhà nào cũng có), đặt nghiêng trên nền nhà, dưới chống cái que, trên mâm đè hòn đá nặng; nướng một con cua đồng hay một miếng thịt cho thơm buộc vào que chống. Chuột đánh mùi thơm, chui vào dưới mâm ngoặm mồi tha đi làm bật que chống, cái mâm và hòn đá sập ngay xuống đè chết con vật. Tất nhiên, cách đánh bẫy mâm này có cái phiền phức là trong nhà mèo, chó đều phải nhốt lại cẩn thận.
Cách đánh bả chuột là dùng thuốc độc trộn vào thức ăn, có khả năng cùng lúc diệt nhiều con, nhưng xưa nhà tôi các cụ không cho dùng, vì sợ chết lây cả những loài vật khác. Cơ khí phát triển, trên thị trường xuất hiện các loại bẫy: bẫy chém, bẫy lồng,... gia đình tôi đều mua dùng đánh các giống chuột đồng, chuột nhà, chuột nhắt. Nhưng những giống chuôt này đều kỵ mùi chết của đồng loại. Sau mỗi lần đánh được chuột, phải ngâm, rửa bẫy thật kỹ mới đem dùng lại

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..