25 thg 6, 2022

BẠN CÓ BIẾT HẠT CỦ ĐẬU RẤT ĐỘC KHÔNG ?


💥



Hôm nay, có một bạn trẻ mua củ đậu thì thấy có quả và hạt rất đẹp. Bạn đã chụp hình khoe vui vui trong nhóm vì chưa bao giờ bạn nhìn thấy. Tôi không ngờ rằng số người không biết nhiều hơn số người biết về nó.
Tôi xin phép được sử dụng hình chụp của bạn ấy, viết vài dòng chia sẻ điều tôi đã từng bị nguy hiểm khi ăn hạt này, và tôi đã may mắn hóa giải nó như thế nào.
Cây này ngoài Bắc gọi là cây củ đậu, trong Nam gọi là củ sắn . Cây củ đậu khi trồng bằng củ nó sẽ cho hạt, trồng bằng hạt thì sẽ cho củ. Tôi đã bị ngộ độc hạt này. Nó rất rất độc!!! Hạt này không được ăn!!! Người ta chỉ dùng nó để làm thuốc trừ sâu, rệp, và thuốc trị ghẻ lở thôi.
Tôi đi xa hơn một năm mới trở về nhà ở ngoại ô, thấy trên giàn leo có cây dây leo đã héo, trên đó có những trái đậu già trông rất ngon. Bẻ ra thì thấy hạt đậu lạ mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ. Tôi thầm nghĩ: "chắc giống đậu mới của cậu mợ mang ở nước ngoài về trồng thử trong vườn". Tôi bèn ngắt vô nấu cháo với gạo lứt. Quý vị biết mà, cháo gạo lứt phải hầm rât lâu thì mới xài được.
Tôi ăn một thìa cháo, thấy có vị đắng nên nghi nghi?!? Tôi nhặt vài hạt đậu nhai riêng thì thấy vị đắng của nó giống như vị đắng của trái khổ qua rừng, nhưng ngai ngái hơn. Tôi vẫn nuốt thử xem như thế nào, cảm thấy chối nên tôi dừng luôn, không ăn cháo nữa. Ngay sau đó chỉ chưa tới 10 phút, tôi bị chóng mặt, buồn ói, lưỡi cứng dần, miệng khó ngậm được, nước miếng túa ra, tim đập nhanh, và mắt mờ đi luôn.
Tôi điện thoại hỏi: "Cậu trồng cây gì leo trên giàn trước cửa nhà đấy ?"
- "Cây củ đậu chị ạ".
Tôi biết mình đã bị trúng độc. Chất độc của nó ngang với xyanua, nếu ăn nhiều hơn thì khó cứu, hoặc nếu vượt qua thì cũng để lại di chứng. Tôi chỉ ăn có 1 thìa cháo với khoảng 3-5 hạt đậu này thôi mà đã bị như vậy đó. Thật là nguy hiểm!
Vì bụng đang đói nên tôi không thể ói ra được, mặc dù trong người rất nôn nao. Tôi bèn uống nhiều nước có pha chút muối để nôn mà cũng không được. Tôi gọi taxi để về thành phố và đồng thời gọi cô Phương chủ quán chay Bao Linh Thuc Duong kể với cô về tình trạng của mình. Cô nói: "chị nhai ngay tương Hatcho Miso!"
Ồ nhỉ! Hộp tương đen xì xì kia đi đâu tôi cũng mang theo mà lúc đó tôi không nghĩ ra. Nó là của bạn Yên Bình cho tôi. Tôi rất quý nó. Nó theo tôi đi khắp nơi. Tôi đã dùng nó để giúp một số người, nhưng đến lúc bản thân mình bị thì lại không nghĩ ra. Tôi cảm ơn bạn đã cho tôi, cảm ơn em đã nhắc tôi thật đúng lúc ❤
Tôi nhai 1 viên Hatcho Miso cỡ như viên bi ve, ngậm nó trong miệng lâu lâu rồi mới nuốt chậm xuống. Tình trạng chóng mặt mắc ói giảm dần, lưỡi tôi mềm trở lại, nước miếng không chảy ra nữa. Tôi nói lưu loát hơn và tôi biết mình đã qua cơn nguy hiểm.
Từ Đồ Sơn về đến nhà em tôi ở trong thành phố hết khoảng 30 phút, tôi nhai thêm 2 viên nữa đồng thời uống hết chai nước Lavie 1,5 lít.
Tôi chọn giải pháp uống nhiều nước muối ấm, tập bài mở môn vị, và thụt tháo đại tràng. Tôi hít thở bụng thật sâu để chất độc được tống ra nhanh hơn. Hôm sau tôi khỏe lại bình thường.
Khi bạn Hiếu chia sẻ trong nhóm thì có nhiều bạn vô đó kể rằng ở nông thôn có trẻ em bị chết do ăn phải hạt của cây này. Lá của cây này cũng rất độc, lợn ăn bị chết luôn.
Nói tóm lại, cây này chỉ ăn được củ, còn các thứ khác của nó không được ăn! Củ đậu khi gọt rửa sạch rồi thì tôi thường bổ nhỏ ra ngâm với nước muối khoảng mươi phút, rửa lại một lần nữa thì tôi mới ăn.
Quý vị sống ở thành phố khi mua củ này về ăn nếu nhìn thấy còn lá và quả thì hãy vứt ngay đi, không lưu lại trong nhà, kẻo có người dùng nhầm. Quý vị sống ở nông thôn khi lưu trữ hạt giống thì nhớ để riêng, nhớ viết chữ lên vỏ hộp rõ ràng, để ai cũng biết mà tránh.
Có nhiều quý vị viết comment rằng: "vậy thì tránh xa củ này, không ăn nữa". Như vậy cũng không nên, bởi vì củ đậu bổ dưỡng, nhuận phế, giàu enzime, tốt cho sức khỏe. Chỉ cành lá và hạt (trái) của nó có chất độc thôi.
Tôi được các sư bác ở trong chùa dạy rằng: củ đậu già quá cũng không nên ăn sống. Củ già để nấu thức ăn chín thôi, trước khi nấu thì ngâm rửa nước muối cho thật sạch nhựa rồi mới chế biến.
Tôi chia sẻ hình ảnh thật của quả, hạt, cành lá, và củ của cây củ đậu (củ sắn) để quý vị dễ nhận diện. Tôi có chụp hình bài báo điện tử dán ngay sau đó giúp quý vị dễ dàng tìm đọc ạ.

Chúc quý vị thân tâm thường an
❤
BichThuy Sưu tầm

Tham khảo thêm ( from thuocvuonnha.com/.)



Hạt củ đậu có chất độc nên chỉ được dùng để chữa bệnh ngoài da; một số nơi người ta giã nhỏ hạt rồi hòa vào nước để duốc cá. Lá rất độc đối với trâu bò, nhưng đối với ngựa thì ít độc hơn. Chú ý không cho trâu bò ăn lá củ đậu để tránh bị ngộ độc. Lá cũng độc với cá, nên cũng có thể dùng để duốc cá. Một số nơi cũng dùng lá để chữa bệnh ngoài da, như hạt. Củ đậu được sử dụng làm thuốc trong Đông y và dân gian từ rất lâu đời. Theo Đông y: Củ đậu có vị ngọt, tính mát; vào 2 kinh Phế và Vị. Có tác dụng tinh tân chỉ khát (tăng dịch sinh lý, chống khát) và giải độc rượu. Một số cách sử dụng cụ thể: (1) Giải độc rượu: Dùng củ đậu trộn với đường cát ăn. Sử dụng thường xuyên có tác dụng giải độc rượu rất tốt đối với những người nghiện rượu, nhiễm độc rượu mạn tính. (2) Thuốc trừ sâu hại cây: Hạt của đậu ngâm với nước một đêm, sau giã nhỏ, thêm nước với tỷ lệ 1,5-2% hoặc 4% trộn đều. Phun lên những cây rau, cây bông, cây thuốc lá, ... ở ngoài ruộng. Có tác dụng diệt sâu rau, sâu tơ, rệp rau, rệp thuốc lá, rệp bông, rầy bông, rầy lúa, bọ nhảy. Nói chung, sau 24-36 giờ rệp và nhện đỏ chết hết hay gần hết (90-100%). (3) Chữa ghẻ, da lở loét lâu ngày: Hạt củ đậu giã nhỏ, nấu với dầu vừng, để nguội, bôi hàng ngày. Có thể phối hợp với quả bồ hòn, hạt máu chó, lượng tùy ý. Dùng lá củ đậu giã nát, xát vào chỗ ghẻ cũng có tác dụng. Lương y HƯ ĐAN

14 thg 6, 2022

HOÀI NIỆM PHỞ TƯƠNG LAI


.................................................Sài gòn có phở Tương Lai
.....................................Tiếng đồn quả thực không sai chút nào…
................................................................................(Trích từ thơ của thực khách )
****
.......

             Người Việt ở nước ngoài về quê hương đa phần là để thăm lại bà con xóm làng, viếng quê cha đất tổ hoặc người lớn tuổi muốn đi chơi giối già, thế hệ trẻ muốn tìm hiểu về cội nguồn chôn nhau cắt rốn của mình . Thế nhưng T,một người bạn của tôi ,định cư ở nước ngoài đã khá lâu, mỗi lần về Sài Gòn chơi lại cứ khẳng định mình về nước chỉ là để ăn phở.

      Mới nghe T nói lần đầu ,tôi ngỡ anh nói đùa cho vui nhưng những lần gặp sau T vẫn nói thế khiến tôi thắc mắc truy nguyên và vỡ ra là T đã nói thật vì ở Việt Nam ngoài bạn bè T chẳng còn ai là thân thuộc cả .Còn chuyện mê phở của T thì tôi đã sớm biết từ lâu vì học chung với anh nhiều ở bậc năm trung học .

       Có thể nói là T con người mắc bệnh “nghiền phở”. Căn bệnh này T nhiễm từ ông bố ,người nổi tiếng là một tín đồ trung thành của “đạo Phở”.T tâm sự với tôi là ông bố mình rất khoái phở ,mê phở đến độ sáng nào cũng ăn mà không thấy chán.Minh chứng T nêu ra là chỉ cần nghe ai nói ở đâu trong Sài Gòn có tiệm phở mới khai trương ăn được là thế nào ông bố T cũng mò tới ăn thử cho biết.Bố T từng cường điệu cái gu ăn uống của mình qua câu nói “mọi thứ quà sáng trên đời thua phở hết”.Ông khoe với bạn bè mình là tác giả của câu nói “phở là vua quà sáng” mà tác giả nguyenuthang đưa vào một bài viết nhan đề “Vua quà sáng ở Montreal” đăng trên ”TuổiTrẻ cuối tuần” số ra ngày ngày 19/08/2006.

       T kể với tôi nhà anh ở khu chợ Bàn Cờ từ đầu thập niên 60 ,một vùng người Bắc “chín nút” sinh sống nên có khá nhiều tiệm phở ngon .Nổi tiếng nhất là phở Tầu Thủy do một ông già tóc bạc phơ đeo kiếng cận khá nhiều độ đứng bán.Tiệm phở này nằm ở giữa đường Nguyễn Thiện Thuật ngay hẻm 242 chợ Bàn Cờ ngó xéo qua.Phở Tầu Thủy nổi tiếng ngon nhờ nước dùng trong nấu toàn xương bò đun suốt cả đêm bốc hương phở thơm lừng khắp khu phố.Khách ăn phở đến từ xa vài chục mét đã ngửi thấy mùi.Bánh phở nơi đây thái lớn nhưng mỏng, mềm rất hợp với khẩu vị của người già đã trở thành một đặc trưng của phở Tầu Thủy.Sau 1975 ông già mất ,phở Tầu Thủy nghỉ bán vì cô con gái duy nhất không có khả năng nối nghiệp bố.

          Theo lời T gần khu chợ Bàn Cờ ,có con đường Lý Thái Tổ chạy song song với Nguyễn Thiện Thuật cũng là địa bàn có nhiều tiệm phở ngon ,một là phở Hợp Lợi ở gần bùng binh Cộng Hòa ,hai là phở Tầu Bay nằm đối diện nhà thương Nhi Đồng sát bên nhà thờ Bắc Hà ,ba là phở Đông Mỹ ở cách phở Tầu Bay khoảng hơn 200 mét ngược về phía chợ cá Trần Quốc Toản. Hai tiệm phở Tầu Bay và Đông Mỹ cách nhau có mấy căn nhà thôi nhưng bao giờ Tầu Bay cũng đông khách hơn vì Đông Mỹ là tiệm phở nhỏ,bày ít bàn và lý do cốt lõi là nước phở không ngon bằng.Theo lời T thì chủ 2 tiệm này là người đồng hương.Ông già chủ phở Tầu Bay thường mặc bộ bà ba trắng ngồi thu tiền,có nhiều tiếp viên giúp việc.Còn ông chủ phở Đông Mỹ hay mặc bộ bà ba nâu trực tiếp đứng bán phở với con cái trong nhà phụ giúp bưng phở.Sau 1975 phở Tầu Bay vẫn tiếp tục đông khách nhưng phở Đông Mỹ khách ngày một thưa thớt đi và sau khi bố mất người con trai cả chỉ trụ được tiệm không quá một năm.Và cùng thời gian đó ,do kinh tế đi xuống ,phở Hợp Lợi ở cuối đường Lý Thái Tổ cũng nghỉ bán.

           Năm 1982, T cùng gia đình ra nước ngoài định cư.Không biết gia đình gặp khó khăn gì chăng mà T bặt tăm không liên lạc với tôi từ khi đó.Năm tháng trôi nhanh ,thấm thoắt đã hơn 2 chục năm ,chúng tôi không tin tức gì về nhau và tôi tưởng mình đã mất thêm một người bạn .Một lần dọn tủ sách cũ thấy cuốn “Thành ngữTự điển” T mua tại nhà sách Khai Trí tặng tôi năm xưa trong một dịp bát phố Lê Lợi ,tôi đã lấy xuống viết vào trang đầu vài chữ hoài niệm :” Của một người bạn không bao giờ còn gặp lại.”

         Nhưng thật bất ngờ, một lần trên đường chở con đi thi tốt nghiệp trung học ,tôi gặp lại T ở gần Bưu điện Chợ Lớn. Chúng tôi tay bắt mặt mừng, nỗi vui không sao tả hết,biết bao điều muốn nói nhưng vì không có thời gian T hẹn sáng mai gặp tôi tại 194 Nguyễn Tri Phương quận 5.

        Sáng hôm sau, đến chỗ hẹn tôi mới biết nơi đây là tiệm phở Tương Lai,phở ngon nổi tiếng một thời của thành phố Sài Gòn. Vừa bước vào cửa, tôi thấy T đang nhâm nhi cà phê nơi chiếc bàn liền sát bậc cửa ra vào .Anh đã “xí“ chỗ cho tôi bằng một chai sữa tươi gọi sẵn đặt trên bàn. Nhìn quanh, tôi thấy tiệm đang đông khách, có cả mấy người nước ngoài.Ngay khi tôi vừa ngồi xuống, T giơ tay búng cái “tách” làm hiệu gọi. Một cô bé phục vụ bước tới khoanh tay. Anh kêu cho mình một tái nạm gầu rồi ngó tôi bảo: “Cậu thì chắc vẫn tái nạm vè nước trong như ngày xưa nhỉ ?”. Tôi mỉm cười gật đầu thầm cám ơn trí nhớ của anh.

        Trong lúc ngồi chờ, tôi đảo mắt nhìn quanh. Trái với vẻ bình dân ngoài mặt tiền, phía trong tiệm nom sang trọng hơn do mới được tân trang lại. Đập vào mắt tôi là hai dãy ghế bằng i-nốc sáng choang. Trên tường, ngoài mấy chiếc quạt đang quay vù vù, tôi thấy một tấm áp-phích quảng cáo phở Tương Lai và một bản danh sách liệt kê những món phở của tiệm. Nền nhà sử dụng gạch ốp-lát kiểu mới bóng lộn. Các cô bé mặc áo đỏ mang chữ Tương Lai trên lưng tươi tắn tới lui phục vụ khách. Từ một góc phòng, âm vang nhè nhẹ một bản nhạc Pháp không lời góp phần tạo nên một khung cảnh ấm cúng, thân mật.

         Hai tô phở vừa đặt xuống bàn toả hương thơm lừng.Đưa mắt nhìn,tôi nhận ra nước dùng phở ở đây rất trong, thơm mùi bò mà không gây. Những miếng thịt nạm vè thái không mỏng, không dày, góc cạnh vuông vắn, xếp lớp trải đều. Vắt lên trên chúng là những lát thịt bò tái mỏng trắng phơn phớt hồng nom bắt thèm. Quả là một tô phở hấp dẫn khiến chưa ăn mà nước miếng tôi đã ứa đầy miệng. Nhìn sang T, tôi thấy anh đang dồn hết tâm trí vào việc ăn phở. Đầu chúi vào tô phở, mắt mở to, sống mũi phập phồng theo từng hơi hít hà sâu, hai tay thoăn thoắt nhặt rau, từng lá rau húng, cọng ngò gai, miếng ớt, nhánh hành trần… lần lượt được anh bỏ nhanh vào tô. Anh thêm muỗng tương ớt, nặn chút chanh rồi xoa tay nhón đôi đũa .

          Mải miết nhìn khúc dạo đầu quá ư hấp dẫn của con người có “tâm hồn ăn uống” tôi quên béng đi lý do việc mình có mặt ở đây lúc này .Thế nên khi tôi cầm đũa thì tô phở của T đã vơi đi phần nào. Anh nheo mắt mỉm cười hóm hỉnh chế giễu sự chậm chạp của tôi : ”Ăn phở phải ăn thật nhanh ,khi nó còn đang nóng hổi thì phở mới ngon. Mà hồi nãy đi ngang quầy phở, cậu có thấy những miếng củ cải trắng nổi ở trong thùng nước dùng không?... Chính thứ củ cải trắng đó đã làm cho nước dùng trong và ngọt dịu. Chỉ khi khách quen yêu cầu thì chủ mới cho thêm vài ba miếng vào tô.”



        Khi chúng tôi sắp đứng dậy, một người đàn ông trung niên, dáng chừng là chủ tiệm, bước đến cạnh bên bàn:
_ Cám ơn quý khách,hẹn gặp lại .
Giọng nói gốc Hoa của ông, bất giác khiến tôi suy nghĩ : “Không phải là người Việt mà sao họ nấu phở ngon thế?”.Tôi bắt tay ông và hỏi :
_Chào ông chủ ,ông có thể cho biết phở Tương Lai khai trương từ bao giờ không?
Ông ta vội xua tay chỉ về phía người đàn bà đứng ở quầy :
_ Bà chị tôi mới là người đứng trông coi cửa hàng phở . Tôi chỉ có vai trò phụ giúp thôi. Chẳng giấu gì mấy ông,tiệm phở này trước đây do ba tôi gầy dựng. Bây giờ già, chân đau, ổng phải nghỉ ngơi trên lầu. Gia đình tôi bán phở từ năm 1956 ở một địa điểm khác cũng trên đường Nguyễn Tri Phương ,khúc đường phía trên gần tượng đài , nhưng được dăm năm thì chuyển về đây”.
     T xen vào :
_ Phở Tương Lai như thế xuất hiện cũng đã phải trên năm chục năm.Nhưng sao gia đình bác không xây cất lại cho khang trang hơn như những tiệm phở mới xuất hiện gần đây ?
      Người đàn ông mỉm cười :
_ Ồ, không phải ba tôi không có khả năng. Ông để vậy là có dụng ý riêng : muốn khách quen xa Sài Gòn lâu ngày hoặc những người định cư ở nước ngoài lâu năm trở về thì chỉ cần nhìn qua là họ nhận biết ngay tiệm phở Tương Lai thường ăn khi xưa mà ghé vào. Trong việc buôn bán làm ăn ,chúng tôi rất trân quý những khách hàng lâu năm .



       Chúng tôi rời khỏi tiệm phở với tâm trạng khác nhau.Tôi vui vì gặp lại bạn xưa .Còn T vui vì đạt sở nguyện về Việt Nam để thưởng thức phở ngon đúng gu của mình.T cho tôi số ĐT và hẹn 2 năm sau sẽ gặp lại .Nét mặt anh thật tươi khi chúng tôi bắt tay giã biệt nhau.Khi lấy xe xong,tôi còn thấy T nán lại lui cui chụp vài pô hình nơi cửa tiệm phở .
          Hai năm sau chúng tôi lỡ hẹn vì tiệm phở Tương Lai đóng cửa.Một lần đi ngang,dừng xe mua tấm vé số nơi vỉa hè gần số nhà 194 ,tôi được người bán vé số cho hay :" Tiệm phở nghỉ bán vì anh em nhà họ bất đồng.Ngôi nhà 2 căn liền đã được bán cho chủ mới mà nghe nói sẽ phá đi để cất lại thành nhà hàng lớn chứ không bán phở ."

       Nhìn hai chữ Tương Lai trên bảng hiệu của tiệm phở mới ngày nào rất nổi tiếng và đông khách,nay im vắng cửa đóng then cài, tôi thấy lòng trầm xuống ,bâng khuâng man mác buồn. Không chỉ tiếc mất đi một tiệm phở ngon, tôi còn mất đi một người bạn cũ như T từng nói:” Mình về nước chỉ là để ăn phở…”.
Tôi còn nhớ ,trên menu dán tường,một lần tiệm phở Tương Lai được một thực khách lưu niệm 2 câu thơ:

                                 Sài Gòn có phở Tương Lai
                            Tiếng đồn quả thực không sai chút nào…


       
        Năm tháng trôi qua, Sài Gòn nhiều đổi thay. Nguyễn Tri Phương vẫn là con đường thu hút nhiều khách ăn uống về đêm.Có thêm nhiều quán phở mới khai trương nhưng không có phở Tương Lai .Vài khách cũ bâng khuâng dừng bước trước nhà hàng choán chỗ quán phở ngày xưa .Họ không thể nào tìm lại được những cảm giác cũ thân quen ,gần gũi từ khung cảnh hay từ những món ăn .Tất cả đã khác xưa,tất cả đã là quá khứ .Ba chữ phở Tương Lai chỉ còn là hoài niệm để nhớ về tiệm phở vang bóng một thời:


Ngày xưa có phở Tương Lai
Một thời nổi tiếng ăn xong nhớ hoài
Bây giờ tiệm phở Tương Lai
Chỉ là hoài niệm cho ai muốn tìm

                                                                             Mru Thăng




         ...........................................................................

Giết chim bằng ống thổi

( Bài đã đăng trên báo Tuổi Trẻ cuối tuần số 14 ngày 11.4. 2010 )

....

......Sáng chủ nhật vừa qua, trên đường về nhà sau khi đi tập thể dục, tôi thấy một người đàn ông thổi chim trên đường Thành Thái (quận 10 ,thành phố HCM). Chỉ trong vòng mươi phút ,ông ta thổi rơi 5 ,6 con chim sẻ .Tội nghiệp mấy con nhỏ bé quen lệ trời tờ mờ sáng còn ” ngủ nướng” trên cành cây , đâu hay biết mạng sống của chúng sắp bị tử thần lấy đi . Những con chim vô tội đó vô tội rơi bộp xuống mặt đường, sã cánh nằm yên chỉ sau một hơi thổi nhẹ nhàng từ miệng người thổi chim truyền qua cái ống nhôm..

...........Không phải chỉ mình tôi mà cả gần chục người khác cũng hiếu kỳ tụm lại quan sát người thổi chim .Ông ta trạc ngoại tứ tuần ,đầu đội cái mũ vải dân phòng màu hạt dẻ ,áo pyjama xám ,quần tây cụt ống, chân đi giầy vải,lưng đeo cái can nhựa để trong bao nylông mầu xanh nhạt .Tất cả đồ nghề thổi chim của ông chỉ có một cái ống nhôm dài chưa quá 3 mét và một nắm đất sét dẻo trong túi quần để mỗi lần thổi thỉ thò tay véo một tí cỡ hạt ngô vo tròn lại cho vào đầu ống nhôm .

.............Khi thấy không còn chim trên những cây trồng trước Học viện Quân y ,người thổi chim cắp cái ống nhôm nơi nách, lững thững đi về phía đường Tô Hiến Thành.Tôi rảo bước đến cạnh trò chuyện khen tài thổi chim hiếm thấy .Như được bắt trúng mạch ,ông ta khoe trong thành phố Sài Gòn chỉ có mình là người duy nhất làm công việc này.Không chỉ bắt chim sẻ , ông bảo khi ra ngoại thành những con chim nặng 3 ký cũng thổi rơi luôn. 

........Tôi đế thêm :

_ Tụi trẻ con mà nhìn thấy ông thổi chim hay như vầy chắc chúng thích thú rủ nhau bắt chước quá !

    Ông cười lắc đầu :

_ Bắt chước à ? Không phải chuyện dễ ,tưởng thế mà làm không được đâu ! 

     Nói rồi ông xăm xăm bước không để tôi kịp trao đổi gì thêm.


.... ........

   .Tôi nghĩ người thổi chim này từ miền Bắc vào vì thuở bé sống tại Hà Nội tôi đã từng chứng kiến lớp thiếu niên đàn anh của mình bắn chim sẻ ,chim mía bằng ống xì đồng. Nhưng bắt chim theo kiểu thổi ống đồng thời ấy chỉ có tính cách tiêu khiển mua vui như một trò nghịch ngợm của tuổi ấu thơ mà thôi.Việc bắn những con chim sẻ trên đường phố Sài Gòn bây giờ mà tôi chứng kiến lại là một công việc , một kế mưu sinh nhằm kiếm chác món nhậu hoặc thêm thắt cho bữa cơm bớt đạm bạc khi gia đình đang hoàn cảnh khó khăn sau đại dịch Covid-19.


.......

        Nhưng ngẫm suy kỹ thì lợi bất cập hại, bởi việc thổi chim đó ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái thành phố . Có lẽ nào đang khi cả nước đang hưởng ứng hàng loạt sự kiện bảo vệ môi trường như “Giờ Trái đất”, “Tháng Thanh niên hành động vì môi trường ”…thì chúng ta lại có thể thờ ơ trước sự kiện hàng ngày mấy chục con chim sẻ đều đặn bị " lên mâm".

.     Thử hỏi bạn có buồn và thất vọng không khi mai này chẳng còn được thấy những con chim sẻ hồn nhiên nhảy nhót trên hè phố lúc bình minh hoặc ngắm chúng xào xạc tìm gọi nhau đi ngủ dưới mái hiên nhà hay chui vào các tán lá lúc hoàng hôn ?

     Thành phố bê tông hoá, chung cư hoá đang là xu hướng hiện nay .Con người  đang đánh cắp khoảng không của những chú chim sẻ, cũng là cái khoảng dịu mát của tâm hồn.Nếu mỗi ngày bạn được ngắm nhìn cảnh chim sẻ sà xuống ăn những hạt xôi thừa ,những hạ gạo vung vãi trên hè phố thì hẳn bạn sẽ dịu bớt đi rất nhiều những âu lo bộn bề do đời sống mang lại. Mong lắm những ai đang sát hại những con chim sẻ đường phố hãy suy nghĩ lại việc làm của mình,đừng vì chút lợi nhỏ mà tàn hại những sinh linh vô tội.Hy vọng các cơ quan chức năng quan tâm ngăn chặn và tìm cách bảo vệ loài chim sẻ để giữ gìn vẻ đẹp của thành phố.

     

.......................

 
..

....

.... ...

....

13 thg 6, 2022

SÀI GÒN XƯA BAO ĐIỀU ĐỂ NHỚ

 

 

      


      Phải công nhận đây là một status thật hay của bác sĩ Trần Ngọc Quang .Bài viết đã khiến Mru tôi đọc tới đâu khâm phục đến đó bởi tác giả có trí nhớ phong phú và phi thường.Cuối bài còn có phần phụ lục ông ghi lại tên các con đường Sài Gòn ngày xưa, Sài Gòn sau 1954 và Sài Gòn sau 1975 rất quý hiếm cho những ai muốn tìm hiểu và sưu tầm về thành phố Sài Gòn.

Đúng là :

Sài Gòn xưa còn nhiều điều chưa sáng tỏ,

Song chẳng thể bảo Sài Gòn xưa đã chết

Bởi đó là vùng đất phong phú đa mang

Tiềm ẩn biết bao điều hay và thú vị…

*****

     


     Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội…. luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.



    Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.

    Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : “nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.

       Sau khi “chạy giặc” hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.



Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại.

Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ “S” sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.

 


  Trong lúc “tản cư” tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp “Douzième” trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi.”Trường Chasseloup” xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ “Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời gian để cạo mủ cao su !



     Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.

    Như vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ chánh cống” và “dân Sài Gòn một trăm phần trăm”, lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước năm mươi tư” mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên Việt Nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…



      Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).

     Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ “préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông “Moreau”, tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”, có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc vườn “Bờ Rô” nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên “Ông Thượng” là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.



       Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard : hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d’Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.

      Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam<đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.


           
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lớp, nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).



       Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một “đứa con” của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d’Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.

      Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).



Rồi cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp đóng tại đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.

      Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là “Kinh Lớn” hay “Kinh Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là “Bùng Binh” trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã Sảnh, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier, nay là công trường Lam Sơn, để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.



     Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước “Nhà Hát Tây”, cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường “Keo Su” dài tới Nhà Thờ Đức Bà ; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque d’Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay “Hồ Con Rùa”.



     Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thường vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa giữa” vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ “e” chớ không phải với chữ “é” vì là người gốc Ý Đại Lợi.

      Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm “Le Jaccario” đậu gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.

      Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắn “giàn thun” trên mấy cây soài nên bị “Ông Từ” rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt “Ánh”. Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học “trường tây” nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung” cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt Ánh ?


       Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.

      Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.

     Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người Việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài “Sử Gia” buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng “Tả Quân Lê Văn Duyệt”, đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.



    Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.

      Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson De Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập ; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.

    Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng “Lăng Cha Cả”, có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 “Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine” và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cương …

    Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.

*****

Phụ lục

Những tên đường Sài Gòn trong bài theo thời cuộc

Thời pháp thuộc         Sau 1954             Sau 1975

Albert Premier     Đinh Tiên Hoàng Đinh Tiên Hoàng

Amiral Roze        Trương Công Định       Trương Định

Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau  Trần Hoàng Quân        Nguyễn Chí Thanh

Arras              Cống Qùynh   Cống Qùynh

Aviateur Garros, Rolland Garros    Thủ Khoa Huân  Thủ Khoa Huân

Barbé                  Lê Qúy Đôn           Lê Qúy Đôn

Blancsubé, rue Catinat prolongée  Duy Tân     Phạm Ngọc Thạch

Bonard                Lê Lợi            Lê Lợi

Carabelli    Nguyễn Thiệp       Nguyễn Thiệp

Catinat       Tư Do            Đồng Khởi

Champagne        Yên Đỗ       Lý Chính Thắng

Charner     Nguyễn Huệ       Nguyễn Huệ

Chasseloup Laubat      Hồng Thập Tự    Nguyễn Thi Minh Khai

Chemin des Dames     Nguyễn Phi         Lê Anh Xuân

Colonel Boudonnet      Lê Lai         Lê Lai

Dixmude    Đề Thám   Đề Thám

Đỗ Hữu Vị, Hamelin     Huỳnh Thúc Kháng      Huỳnh Thúc Kháng

Douaumont         Cô Giang   Cô Giang

Ducos        Triệu Đà     Ngô Quyền

Duranton   Bùi Thị Xuân       Bùi Thị Xuân

Espagne    Lê Thánh Tôn     Lê Thánh Tôn

Eyriaud Des Vergnes  Trương Minh Giảng     Trần Quốc Thảo

Frédéric Drouhet Hùng Vương       Hùng Vương

Frère Louis Võ Tánh    Nguyễn Trãi

Frères Guillerault Bùi Chu      Tôn Thất Tùng

Gallieni, rue des Marins        Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh ,Trần Hưng Đạo 1, Trần Hưng Đạo 2

Garcerie    Duy Tân     Phạm Ngọc Thạch

Général Lizé       Phan Thanh Giản         Điện Biên Phủ

Georges Guynemer     Võ Di Nguy Hồ Tùng Mậu

Huỳnh Quan Tiên         Hồ Hảo Hớn        Hồ Hảo Hớn

Jaccario     Tản Đà       Tản Đà

Jauréguiberry     Ngô Thời Nhiệm Ngô Thời Nhiệm

La Grandière      Gia Long    Lý Tự Trọng

Lacaze       Nguyễn Tri Phương     Nguyễn Tri Phương

Lacote       Phạm Hồng Thái          Phạm Hồng Thái

Larégnère         Đoàn Thị Điểm          Trương Định

Legrand De La Liraye    Phan Thanh Giản       Điện Biên Phủ

Léon Combes     Sương Nguyệt Ánh      Sương Nguyệt Anh

Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle  Công Lý     Nam Kỳ khởi nghĩa

Marins        Đồng Khánh       Trần Hưng Đạo 2

Miss Cavell Huyền Trân Công Chúa        Huyền Trân Công Chúa

Nancy            Cộng Hòa          Nguyễn Văn Cừ

Nguyễn Tấn Nghiệm,  rue de Cầu Kho   Phát Diệm Trần Đình Xu

Nguyễn Văn Đưởm      Nguyễn Văn Đưởm      Nguyễn Văn Nghĩa

Ohier          Tôn Thất Thiệp   Tôn Thất Thiệp

Paul Blanchy      Hai Bà Trưng      Hai Bà Trưng

Pavie, Hui Bôn Hoả     Lý Thái Tổ Lý Thái Tổ

Pellerin      Pasteur      Pasteur

Phan Thanh Giản         Ngô Tùng Châu  Lê Thị Riêng

Pierre Flandin     Bà Huyện Thanh Quan      Bà Huyện Thanh Quan

Pierre Pasquier     Minh Mạng             Ngô Gia Tự

Place Eugène Cuniac  C.Trường Quách Thị Trang  C.Trường Quách Thị Trang

Place Maréchal Joffre     Công Trường Quốc Tế       Hồ con Rùa

Richaud     Phan Đình Phùng        Nguyễn Đình Chiểu

Somme                Hàm Nghi     Hàm Nghi

Testard                Trần Qúy Cáp     Võ Văn Tần

Thévenet         Tú Xương          Tú Xương

Tổng Đốc Phương       Tổng Đốc Phương       Châu Văn Liêm

Trương Minh Ký, Lacant       Trương Minh Ký    Nguyễn Thị Diệu

Verdun, Gal Chanson, Nguyễn Văn Thinh  Lê Văn Duyệt  Cách mạng tháng 8

Ypres         Nguyễn Văn Tráng                Nguyễn Văn Tráng

11è R.I.C.        Nguyễn Hoàng                  Trần Phú

 

Tác giả : BS Trần Ngọc Quang

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..