31 thg 7, 2016

NHỮNG BÀI THUỐC ĐƠN GIẢN NHƯNG CẦN CHO NGƯỜI LỚN TUỔI.

ĐẶC SAN 60 NĂM TÌNH NGHĨA BẠN BÈ

ĐẶC SAN 60 NĂM TÌNH NGHĨA BẠN BÈ
 GỒM 100 TRANG A4 

  ĐƯỢC PHÁT HÀNH HÔM 4 TẾT BÍNH THÂN 2016
 NHÂN BUỔI HỌP MẶT CỦA CÁC CỰU HỌC SINH 
 KHOÁ V PHAN BỘI CHÂU PHAN THIẾT





 _________________
       



       


              Các Thầy Cô dạy chúng ta trong những năm học Đệ Nhất Cấp
                 
_________________




                                                         ______________




             Bạn bè ngày xưa chung khoá 5 trường  Trung học Phan Bội Châu

                                                         _____________

           LỜI NÓI ĐẦU




        Tình bạn thuở học trò là một trong những quan hệ tốt đẹp nhất trong xã hội. Quan hệ này vô cùng trong sáng, chân tình và hết sức thủy chung, bởi quen nhau dưới mái trường, trong cùng một lớp học, không bao giờ tính toán thiệt hơn, không bao giờ dối trá lừa lọc, không bao giờ cố ý làm tổn thương nhau và giữ mãi cho nhau những điều tốt đẹp, đó là sự chân tình, trong sáng. Chúng ta gặp nhau, quen nhau trên sân trường Phan Bội Châu- Phan Thiết từ năm 1956, lúc đó còn là những cô chú nhóc con, đến nay năm 2015, gần tròn 60 năm mà gặp nhau vẫn mày tao, đùa vui như “đàn khỉ nhỏ”, đó chính là  sự thủy chung.
          Đến năm 1963 hầu hết chúng ta ra trường, rời khỏi Phan Bội Châu, mái nhà chung của 261 cô cậu trúng tuyển vào Đệ Thất năm 1956 và sau này bổ sung thêm từ các trường khác về học chung khóa lên đến 311 người (có thể chưa chính xác), chúng ta không có dịp gặp nhau hàng ngày nữa, nhưng luôn nhớ về nhau, và nếu có dịp cũng cố gắng tìm đến thăm nhau, nhất là những lúc vui, buồn, ốm đau. Giờ đây, chúng ta ngoài gia đình, chúng ta còn có”Bạn học”. Quan hệ trong gia đình vợ chồng con cháu, quan hệ máu thịt tình nghĩa đó nó có cung bậc cảm xúc vui buồn riêng, nó có tôn ty trật tự chứ không cùng trang lứa. Khác với quan hệ”Bạn học”, chúng ta cùng trang lứa có những cung bậc cảm xúc riêng. Chúng ta với nhau không thấy mình Già, bởi chuyển động cùng chiều cùng vận tốc, thì nhìn nhau như đang đứng yên, vui thực! Nên rất thích gặp nhau, rất thích chuyện trò với nhau.
       Ý nghĩ đó dẫn đến đa số đồng thuận, ngoài những lúc gặp nhau riêng rẽ, chúng ta mỗi năm phải có một lần gặp mặt chung và chọn chiều Mồng Bốn Tết.Quyết định này đã được thực hiện từ năm 1995, đều đặn cho đến nay
Đặc San Thế Hệ Thứ V, Trường Phan Bội Châu. (Tập II), ra mắt vào dịp họp mặt chiều Mồng Bốn Tết năm 2016, nhằm kỹ niệm 60 năm Bạn Bè của chúng ta.Xem như đây là tập cuối,viết về mình về bạn bè về thầy cô trường lớp, cả về chuyện đời,cốt để cho nhau đọc
         Tập II này được nhiều bạn tham gia,gởi bài và ảnh. Những bài và ảnh đã đăng cũng chỉ là những cây viết nghiệp dư, hay dở, khen chê, cũng mong xin được các bạn mỉm cười bởi cái quý là tấm lòng với nhau.
                                   
                                                                              Phan Thiết cuối năm 2015
                                                                                           
                                                                                        Ban Biên Tập


                              ___________                                


  
          Danh sách các Thầy Cô bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp 
__________

STT
Họ và Tên
Môn dạy
Ghi chú
01
Lê Tá
Hiệu Trưởng

02
Hòang Đức Bào
Tóan, Hóa

03
Ngô Quang Chương
Anh văn, Sử, Địa

04
Phạm Hoài Đức
 Nhạc

05
Vĩnh Giên
Sử, Địa

06
Trần Đức Long
Pháp Văn, Đức dục

07
Nguyễn Khắc Mão
Tóan, Lý, Hóa

08
Đòan Mậu
Vẽ

09
Chu Nguyên Như
 Vẽ

10
Phan Văn Khánh
Địa lý

11
Nguyễn Hữu Ru
Văn, Lý, Hóa, Vạn vật

12
Lê Hòang Chung
Nhạc

13
Nguyễn Hữu Tiến
Văn, Công dân-Luân lý

14
Phạm Khắc Thành
Anh văn, Công dân

15
Hồ Thế Viên
Văn, Anh văn

16
Lê Thị Hòang Yến
Pháp văn, Vạn vật

17
Nguyễn Thị Xuân Anh
Anh văn

18
Bùi Hữu Huân
Văn, Pháp Văn

19
Nguyễn Hòa Thành
Văn

20
 Từ Hữu Ca
Thể dục

21
 Nguyễn Hữu Trang
Pháp văn

22
Nguyễn Bá Đợi
Anh văn

23
Phạm Tư Thủy
Pháp văn

24
Đàm Văn Cơi
Thư ký-Thủ Quỷ

25
Tôn Thất Do
Thư ký- Kế toán

26
Nguyễn Văn Toại
Giám Thị

27
Nguyễn Văn Mưu
Giám Thị

28
Võ  Trác
Giám Thị

29
Nguyễn Nhiên
Giám Thị

30
Vũ Thị Bột
Toán

31
Nguyễn Thị Liễu
Nữ Công

\





            Danh sách các Thầy Cô Bậc Trung Học Đệ Nhị Cấp 
___________

STT
Họ và Tên
Môn dạy
Ghi chú
01
Lê Tá
Hiệu Trưởng, Pháp văn

02
Nguyễn Quốc Biền
Văn

03
Phạm Thị Hoa
Công dân

04
Nguyễn Văn Khàm
Anh văn

05
Nguyễn Kỳ Tâm
Tóan

06
Lê Chính Long
Anh văn

07
Nguyễn Khắc Ngữ
Sử, Địa

08
Ngô Hiệp
Lý, Hóa

09
Phan Xuân Hường
tóan

10
Phạm Hữu Hiệp
Vạn vật

11
Vũ Ngô Hoằng
Thể dục

12
Nguyễn Thanh Tùng
Triết

13
Nguyễn Tiến Thành
Công dân

14
Phan Văn Hộ
Anh văn

15
Đinh Văn Minh
Pháp văn

16
Sơn Hồng Đức
Sử, Địa

17
Lê Mậu Thống
Tóan

18
Vũ Hữu Canh
Tóan

19
Ngô Hiệp

20
Châu Văn Lực
Hóa

21
Nguyễn Đình An
Vạn vật

22
Cao Hữu Hanh
Anh văn

23
Vĩnh Sâm
Triết

24
Trần Phụng Tường
Pháp

25
Nguyễn Quang Minh
Văn

26
Nguyễn Văn Hào
Văn

27
Nguyễn Năm
Cai trường


                                 


Vô Cùng Thương tiếc và mãi mãi nhớ đến các Bạn đã qua đời


Số thứ tự
Họ và Tên
Số Danh Bạ
01
Nguyễn Thị Bê
677
02
Nguyễn Thị Ngọc Diệp
683
03
Nguyễn Thị Lịch
694
04
Trần Thành Bang
733
05
Nguyễn Văn Bút
740
06
Lê Chương
753
07
Huỳnh Ngọc Ghênh
761
08
Lê Văn Hầu
768
09
Lý Phát Hòa
774
10
Nguyễn Văn Hội
779
11
Ngô Minh Hùng
787
12
Lê Ngọc Huynh
794
13
Mai Thanh Long
804
14
Từ Ngọc Nam
812
15
Nguyễn Văn Nhảy
822
16
Nguyễn Văn Tế
848
17
Huỳnh Ngọc Vinh
866
18
Đỗ Hữu Vịnh
869
19
Hồ Đắc Cung
495
20
Tôn Thất Lân
872
21
Phan Ngọc Toản
589
22
Trần Thiện Tường
596
23
Mai Thiết
615
24
Nguyễn Ngọc Thìn
616
25
Trần Văn Hàm
537
26
Phạm Minh Tâm
2868
27
Bùi Xoài
?
28
Võ Thị Bạch Yến
724
29
Đặng Hùng
784
30
La Văn Chà
489
31
Đặng Chánh Thái
873
32
Nguyễn Tấn Ngọc
816
33
Trương Văn Em
760
34
Nguyễn Văn Trung
855
35
Lê Văn Khen
796
36
Nguyễn Ngọc Cơn
746
37
Lê Văn Tư
856
38
Trương Ngọc Cẩn
490
39
Phan Ngọc Toản
589
40
Lương Cảnh Hùng
?
41
Trần Văn Sói
?
42
Phạm Văn Hóa
772
43
Tăng Thị Nhu
709
                    
                                                     ______________
                 
                     ĐÔI LỜI THÌ THẦM VỚI CÁC BẠN ĐÃ KHUẤT

                                        …Hương trầm có còn đây, ta thắp nốt chiều nay
                                         Xin ngủ trong vòng nôi, ta ru ta ngậm ngùi
                                         Xin ngủ dưới vòm cây...................”
                                                                                  ( Trịnh Công Sơn)

 
 Chúng tôi, bạn bè của các anh chị, đang sống, xin mượn mấy lời của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, trong bài”Ta ru ta ngậm ngùi”, để mong các Anh, Chị được yên giấc ở cõi “Vĩnh Hằng”. Chúng tôi vẫn chắt chiu từng kỉ niệm với các anh chị, của một thời cùng học, cùng chơi, cùng làm việc với nhau, rồi tản mạn kể cho nhau nghe, những điều tưởng như bình dị nhưng vô cùng quý báu của cuộc đời bạn bè với nhau.
Ví như với tôi (Hoàng Công Bình), hai người bạn cùng lớp mà tôi gặp lại sớm nhất khi rời trường Phan Bội Châu là anh Nguyễn Ngọc Thìn và anh Từ Ngọc Nam. Khi tôi còn là một sinh viên, lây lất, bầm dập ở trường Đại học, thì hai anh đã là giáo viên. Anh Từ Ngọc Nam dạy ở Duy Xuyên Quảng Nam, đầu năm học 1964-1965, tôi ra Huế Nhập học năm thứ hai, anh Nam ra Quảng Nam dạy học, rất tình cờ chúng tôi gặp nhau, vui như chưa bao giờ vui đến thế ! Đến Nha Trang thì trời tối, thời buổi đó xe không dám chạy đêm. Nam dẫn tôi vào khách sạn. Tối đó, khi tiếp xúc với nhân viên khách sạn, Nam là một người đàn ông thực sự, còn tôi con cừu non hiền lành đến tội nghiệp…Đến Quản Nam, chúng tôi chia tay nhau, Nam nhìn tôi cười đến méo miệng, còn tôi đỏ mặt cúi chào. Sau này khi tôi về dạy Phan Bội Châu, thì Nam được đổi về dạy trường Nam Phan Thiết nhà Nam ở sau đường Ngư Ông, lúc này Nam đã có chị Thu và hai ba con nữa, tôi cũng hay xuống chơi, hình như hằng tuần, sau này Nam đổi về La Gi tôi có dịp cũng ghé thăm, có lần tôi Đinh Quốc Hùng, Mai Trung Trực rủ nhau vào Nam, lúc đó Châu Thị Lý dạy ở trường Bình Tuy, nhưng chúng tôi không gặp. Xuống nhà Nam ở lại chị Thu cho ăn một món canh gì rất đặc biệt, rất ngon, sau này mấy lần hỏi chị, chị cũng không nhớ, và cứ thế lúc nào tôi vào La Gi thì ghé thăm Nam, lúc nào Nam ra Phan Thiết thì thăm tôi, ở lại chơi với nhau, chia sẻ với nhau những chuyện vui buồn. Lúc Nam đã giảm sút sức khỏe, nhân có Quý ở Canada về chúng tôi, thuê một chiếc xe vào thăm, hôm đó đi cũng bảy tám bạn tôi không nhớ hết. Nam mất vào dịp đầu năm học, lúc đó tôi đang trên đường ra Nha Trang dự khai giãng của một trường tư thục, nghe tin, rất buồn nhưng không vào thăm được.

    Với Nguyễn Ngọc Thìn, cũng vậy, tôi học ở Huế thì Thìn dạy ở Bình Tu một làng quê sông nước bên kia cửa Thuận An. Ở Huế về đó ngoài mấy chục cây số đường bộ, qua đò, rồi đi bộ tiếp, bằng chiếc xe đạp tèn tèn mẹ mua cho khi vào Đệ Thất mang từ Phan Thiết ra, tôi đã đi tìm nhà Thìn. Lúc đó Thìn đã có vợ và cháu bé đầu lòng. Chỉ có sinh viên mới bãi khóa nghỉ học còn các cấp học khác vẫn học bình thường, nên tôi về Thìn ban ngày vẫn đi dạy, chiều mới về, cũng may chị Thìn có người anh hình như cũng sinh viên về làng nên tôi có bạn rong chơi suốt ngày, cảnh quê ở đó rất đẹp, chiều Thìn về chúng tôi lại rũ nhau ra biển, ngồi trên các gò cát trắng mịn, cũng có lúc nhớ về Phan Thiết, cứ thế cho đến khi nghe tin học lại tôi mới lên Huế. Năm 1967 tôi ra trường, một vài năm sau Thìn cũng được về Phan Thiết. Sau năm 1975 Thìn có dạy thể dục ở Phan Bội Châu, vào thời điểm khó khăn đó, giáo viên nào cũng phải làm thêm một công việc gì để phụ giúp gia đình. Thìn ban ngày đi dạy, tối đạp xích lô, tôi ngăn nhà ra một phần nuôi heo, để có chỗ, tôi phải đem chuồng gà ra để ngoài đường bên cạnh nhà, chuồn gà rất đẹp, có hai tầng ngăn bằng lưới sắt, dưới mỗi tầng đều có khung tôn để hứng phân và làm vệ sinh hằng ngày. Mấy hôm chuồng gà bị mất. Một thời gian sau Thìn gặp tôi, sau một câu chưởi thề thân mật, Thìn bảo:
-   Hôm trước, đưa khách về khuya tao chạy qua nhà mầy thấy ai liệng ra đường một cái chuồng gà rất đẹp, thấy tiếc tao chở về, nuôi gà ngon lành ra phết.
-   Cho tao gởi vài con.
-   Cần gì lúc nào gà lớn tao mang cho.
        Lúc Thìn đổi về trường vừa học vừa làm ở Ma Lâm tôi cũng thường đến thăm chơi.Chị cũng được nhận làm nhân viên ở đây, nên đời sống cũng dễ chịu các cháu đều học hành tốt, cháu gái đầu dạy ở trường cấp III Hàm Thuận Nam, một cháu trai làm Hiệu trưởng trường Cấp I ở Hàm Thuận Bắc, gặp tôi các cháu rất vui. Một hôm tôi ở trường về, nhận được giấy mời dự cưới của con Thìn, người nhà tôi bảo chị từ Ma Lâm xuống chờ tôi khá lâu (lúc này Thìn đã mất rồi). Tôi nhất quyết phải đi, nhưng tiệc cưới tổ chức buổi chiều, về đêm một mình rất ngại. Tôi đến rủ Lý Phát Hòa cùng đi, lúc đầu Hòa chần chừ, tôi năn nỉ, sau Hòa nói thật mình đi mà không quà cáp gì cả cho các cháu sao đành, tôi thấy hơi xót xa và bảo tôi đã lo hết rồi cho tôi và cả cho Hòa nữa. Trên đường đến Ma Lâm, Hòa mới nói về cuộc sống của vợ chồng Hòa bây giờ, tôi hết sức thông cảm, về kể lại cho Vinh và Phẩm nghe rồi hứa với nhau sẽ đến thăm Hòa, rủ Hòa ăn sáng và chuyện trò, cho đến lúc Hòa mất chúng tôi vẫn chưa một lần thực hiện lời hứa đó. Hôm thắp nhang trước linh cữu Hòa tôi chảy nước mắt và thì thầm: Chúng mình còn nợ Ông nhiều lắm!
      Khi Trần Thiện Tường đau nặng, Phẩm, Vinh và tôi lên thăm, Tường cũng ở Ma Lâm, mấy lần vẫn không gặp được, trên đường về ba chúng tôi ghé vào nhà Thìn để thăm. Nhà cửa mở nhưng không có ai, chúng tôi đành thắp nhang cho Thìn rồi ra về. Trên đường tôi lo khi chị Thìn về thấy có nhang mà không biết ai thắp nghĩ lung tung cũng phiền, Vinh cười bảo nếu không phải người trần thắp mà người cõi trên thắp cũng tốt thôi.
      Năm 1994 tôi được giao làm Hiệu trưởng, năm đó trường có thêm cấp II, may mắn, Nguyễn Thị Bê cũng được chuyển về trường. Lần đầu tiên gặp tôi trên sân trường, Bê đùa:
- Xin chào Ngài Hiệu trưởng.
- Chào Hiệu trưởng, phải đứng nghiêm chắp hai tay lại, không sẽ bị phạt.
- Ông dám !
          Chúng tôi vui lắm cứ tưởng như những ngày còn đi học. Thời gian chuẩn bị tổ chức 50 năm ngày thành lập Trường, tôi cùng một số thầy cô vào Thành Phố tìm thăm và mời các thầy trước đây về dự, nhận lời các thầy về khá đông đủ. Nhà trường lo tiếp đón khá chu đáo, ngoài ra còn có học sinh cũ đang dạy tại trường thăm viếng chăm sóc thêm, trong đó Nguyễn Thị Bê là người tích cực nhất, các thầy thường đến nhà Bê, cũng trong những dịp đó mà Bê đề nghị mỗi năm chúng ta tổ chức họp mặt một lần, từ đó có buổi họp mặt chiều Mồng Bốn Tết cho đến bây giờ. Lúc Bê đau nặng chuyển vào Sài Gòn, tôi có điện thoại vào hỏi thăm, giọng Bê nghe rổn rảng, tôi đùa đang nằm bệnh viện hay đang đi mua sắm ở chợ Bến Thành? Thế mà hôm sau Bê mất!
     “Đau đớn biết bao khi một người bạn ra đi, chỉ để lại sau lưng sự im lặng”
          Nhưng trong danh sách 43 bạn đã qua đời, mỗi người còn đọng lại trong chúng ta, những chuyện vui buồn, lúc còn bên nhau ở cõi trần này,chứ không phải chỉ có sự im lặng.
             Một lần nữa:
                    “…Hương trầm có còn đây, ta thắp nốt chiều nay
                        Xin ngủ trong vòng nôi, ta ru ta ngậm ngùi
                        Xin ngủ dưới vòm cây. ”
                               
                                                                Phan Thiết tháng 5 năm 2015

                                                                            Hoàng Công Bình

                                                       ___________
                   
 Vĩnh biệt bạn Lê Giao

(Giao mất ở Hà Lan ngày 03-5-2015. An táng tại Phan Thiết ngày 02-7-2015)


                      Bạn đi đâu?
                      Bạn về đâu?
                      Nơi bạn ở minh mông trời đất
                      Cõi vĩnh hằng , sải cánh rong chơi!
                                                                                  Phan Thiết 01-7-2015
                                                                                    Hoàng Công Bình
                                 
                                                    _______________            
                                                     

                     Cầu Sắt  Phan Thiết bắc ngang sông Cà Ty trước 1975
                                                 ______________
    

 THƠ                            
                      SÁU MƯƠI NĂM


    Lớp học ấy vơi dần vài năm một
    Hoa theo kỳ người lối khác rẽ ngang
    Dẫu rất rõ lẽ có đi có đến
    Trước vô thường vẫn thảng thốt không an

                         Sáu mươi năm vèo trôi qua trước mắt
                         Bao thầy cô đi đâu hết cả rồi?
                         Ước lại được ngoái đầu ra phía cửa
                         Bạn và tôi hết đứng lại ngồi

                                                    “ Sáu mươi năm có chúng con tiếp bước
                                                      Lại chuyên tâm, lại cần mẫn đưa đò
                                                      Những bài học nằm ngoài con chữ
                                                      Xin nâng niu trao bao lớp học trò”

      Sáu mươi năm bước chân xưa lóng ngóng
      Tuổi mười ba, mười bốn mấy ai khôn?
      Bài ít thuộc thuộc nhiều trò quỷ quái
      Thầy gọi tên đứng trước lớp  chôn chân

                           Sáu mươi năm lung linh bao kỷ niệm
                           Bạn và tôi chưa lưu bút cho nhau
                          Chuyện tặng ảnh cũng không ai dám nghĩ
                          Tin hay không nhờ thế mới nhớ lâu

                                                   Rồi mốt nọ, mai này còn ai nhớ
                                                   Còn ai không, để nhắc chuyện một thời
                                                   Chỉ cầu nguyện đừng thêm ai già lẩn
                                                   Chợt nhớ quên, chợt lúc khóc, lúc cười.
                                                                             
                                                                 Nguyễn Thị Kim Liên                                                                                                    
                                                                     
     DANH SÁCH HỌC SINH PHAN BỘI CHÂU 








        
     

                                  Ngôi trường Phan Bội Châu 6o năm trước

                                                    _________

                               
           KỂ CHUYỆN VỀ THẦY LÊ TÁ
                                                                                          Mai Xuân Cúc
                                                                           
                                                               A. TIỂU SỬ THẦY LÊ TÁ
 
 Thầy Lê Tá sinh năm 1913 tại Quảng Nam, đậu Tú Tài II Ban Pháp tại Huế năm 1933. Sau đó đậu Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương vào năm 1936 cũng tại Huế. Thầy lập gia đình và có 5 người con gồm Lê Đình Thạch(Trưởng Nam),Lê Thị Vân,Lê Thị Xuân , Lê Đình Nam và 1 gái (không rõ tên).
     Theo tài liệu được trích dẫn từ Đặc San Hội Ngộ 2007 của Trường TH Võ Tánh cho biết Thầy Lê Tá được Nha Học Chánh Trung Việt đề cữ giữ chức Hiệu Trường Trường TH Công Lập Võ Tánh, tọa lạc tại số 1 Bá Đa Lộc Nha Trang từ năm 1952-1955, với sự cộng tác của hơn 30 nam nữ giáo sư, trong số này có nhiều vị rất nổi tiếng như GS Nguyễn Quảng Tuân (Việt Văn), Nguyễn Quang Gĩ, Đặng Đức Cường, Võ Hữu Nghi, Bùi Trọng Bạch..
          Niên Khóa 1955-1956, Thầy Lê Tá được chuyển về làm Hiệu Trưởng Trường Trung Học Công Lập Phan Bội Phan Thiết, tọa lạc trên Đại Lộ Trần Hưng Đạo. Thầy Nguyễn Vỹ thế Thầy Lê Tá làm Hiệu Trưởng TH Võ Tánh (1955-1956).
           Từ niên khóa 1956-1957, trường dời về địa điểm mới tại đường Nguyễn Hoàng, không xa Chợ Phường Phú Trinh. Thầy vừa là Hiệu trưởng kiêm GS Pháp Văn, phụ trách lớp Đệ Thất 3 còn học tạm tại ngôi trường cũ ở đường Trần Hưng Đạo. Cơ sỡ này sau đó trở thành Trường Trung Học Tiến Đức, do Thầy Đặng Vũ Tiển làm Hiệu Trưởng. Lớp Thất 3 năm đó có 50 học sinh, trong số này có Lê Đình Nam (thứ nam thầy) và người cháu tên Lê Đình Nhàn.
      Niên khóa 1957-1958 hai lớp này thành Lục 3 và 4 được dời về ngôi trường mới ở đường Nguyễn Hoàng và Thầy vẫn phụ trách môn Pháp Văn. Niên khóa 1958-1959, trường mở thêm 2 lớp Tam A và B. Vì thiếu gíáo sư nên thầy Lê Tá phải phụ trách dạy môn Lý Hóa và Công Dân Giáo Dục. Cũng trong niên khóa này, trường khánh thành 2 phòng học trệt, nằm kế tòa lầu chính và phòng dạy nhạc, dành cho hai lớp Ngủ 3 và 4 (Anh Văn) với nam nữ học chung. Phía bên kia là phòng thí nghiệm, kế văn phòng và nhà thầy hiệu trưởng (trên lầu). Năm 1961-1962 mở thêm 4 lớp ở dãy nhà trệt, xây trên sân vận động, phiá sau tầng lầu chính. Niên khóa 1962-1963 có hai lớp Đệ Nhất đầu tiên được mở.
          Tháng 8-1963, thầy Lê Tá được cử làm Chánh Chủ Khảo kỳ thi Tú Tài I tại Hội Đồng thi Nha Trang. Cuộc binh biến ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nhà Ngô và nền Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam, Thầy cũng chấm dứt luôn chức vụ Hiệu Trưởng tại trường TH Phan Bội Châu Phan Thiết.

B.THÀNH QUẢ CỦA THẦY HIỆU TRƯỞNG LÊ TÁ (1955 -1963)
                                                                               
        So với các trường Trung Học Công Lập cùng thời tại Tuy Hòa, Phú Yên , Nha Trang, Khánh Hòa (Võ Tánh) và Phan Rang, Ninh Thuận (Duy Tân), thì tỉ lệ học sinh thi đổ Trung Học Đệ Nhất Cấp và Tú Tài I & II, tại trường Trung Lập Công lập Phan Bội Châu Phan Thiết đổ cao hơn. Về thể dục & thể thao, đội Túc Cầu của trường đã đoạt giải ‘ vô địch bóng tròn ‘ dành cho học sinh Trung Học cấp Miền gồm các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
        Trong thành phần đội tuyển trên, có nhiều học sinh bản trường đã trở thành các cầu thủ nổi tiếng, như Thủ Môn Nguyễn Gia (Ngôi Sao Gia Định) và Đội tuyển Equinal của ông Bầu Võ Văn Ơn, Chủ Tịch Tổng Cuộc Túc Cầu Miền Nam VN năm 1961-1963. Ông cũng là chủ nhân của khách sạn Kinh Đô tại đường Phạm Ngủ Lão Sàigòn, trước ngày 30-4-1975. Trần Tá, tuyển thủ đội Thương Cảng Sàigòn và Đội Tuyển thủ Thiếu niên Miền Nam. Năm 1970, đội này đã tham dự giải vô địch túc cầu tổ chức tại Philippine gồm các đội Mã Lai Á, Thái Lan, Indonesia, Phi Luật Tân và VNCH.
            Thời gian còn làm hiệu trưởng, thầy Lê Tá thường di chuyển đó đây bằng chiếc Vespa-Lambro màu trắng, để đến nhà tôi (tiệm may Mai Xuân Trượng), may quần áo và thăm viếng ba tôi là người đồng hương Quảng Nam. Nhũng lúc này thầy rất vui vẽ, nên thường đem tình trạng học hỏi của các học sinh bản trường, kể cho ba tôi nghe và xin ý kiến của một phụ huynh học sinh đóng góp.Thú vui của thầy là thích đi xem chiếu bóng ở rạp Modern trên đường Gia Long vào những ngày cuối tuần với cả gia đình.
       Dịp lễ Giáng Sinh vào cuối tháng 12/1965, giữa giòng người xuôi ngược như trẩy hội trên đại lộ Lê Lợi Sàigòn. Tôi tình cờ gặp lại thầy-cô đang dạo phố. Mừng quá, tôi kêu to giữa đám đông ‘ Thưa Thầy Cô ‘ . Cả hai người đều ngạc nhiên dừng lại nhưng không nhớ tôi là ai, có lẽ vì học trò của thầy đông quá và ở đâu cũng có, chứ không riêng gì Phan Thết. Chừng đó tôi nhắc ‘ Em là con ông MXT nhà may ở Phan Thiết, học sinh Phan Bội Châu ‘.Nghe xong thầy bước tới bắt tay tôi thật chặt và lâu như không muốn thả. Lúc đó tôi cảm động muốn khóc. Cũng từ đó, tôi không còn gặp được thầy cô nữa, cho tới khi qua Mỹ theo diện HO mới nghe tin thầy ở tiểu bang Florida.. chưa kịp sang thăm thì thầy đã ra đi...
         Với bản tính nghiêm nghị, luôn tôn trọng kỹ luật học đường nhưng lại có tấm lòng bao dung tha thứ, nhất là đối với các học sinh nghèo nên thầy rất được học trò thương tuy rằng ai cũng sợ xanh mặt khi phải đối diện bất cứ vì lý do gì, ngoài hành lang, trong lớp học, trước cổng trường hay tại văn phòng. Khi còn tại chức, thầy chỉ thị cho ban giám thị phải luôn kiểm soát sĩ số học sinh có mặt và trốn học tại từng lớp. Đồng thời phải xem xét kỹ học bạ và chữ ký của phụ huynh học sinh. Nhờ vậy mà qua những niên khóa khi thầy làm hiệu trưởng, học sinh Phan Bội Châu đã bước vào nề nếp học đường, biết tôn trọng kỷ luật và trên hết đều cố gắng thi đua học hành, nên tỉ số thành công và đỗ đạt rất cao qua các kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp và Tú Tài so với nhiều tỉnh thị khác tại miền Nam VN.
           Vậy mà cuối cùng thầy phải ra đi khỏi mái trường Phan Bội Châu trong một hoàn cảnh thật đáng buồn, nhất là đối với những người chân chính như Thầy, cũng như những người có lương tâm trong chúng ta.

                                                 ____________

                  VÌ MÁI TRƯỜNG XƯA
                                                                                 Nguyễn Đình Thăng  
     
       Cách đây hơn chục năm,nhiều  cựu học sinh PBC khoá V đã hoạt động tích cực cho trường Phan Bội Châu Phan Thiết ngay tại thành phố Hồ Chí Minh. Ban liên lạc cựu học sinh (BLLCHS) hỗ trợ trường bằng việc gây quỹ cấp học bổng cho các học sinh nghèo vượt khó học tập.Người đứng đầu BLLCHS là anh Trần Giao Hòa,anh không phải là cựu học sinh khoá V nhưng rất có uy tín trong việc điều hành tổ chức này. Để tìm hiểu đôi nét về BLLCHS và cũng để tìm tư liệu viết bài cho Kỷ yếu kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường Phan Bội Châu,tôi đã có cuộc gặp gỡ phỏng vấn nhanh anh Trần Giao Hòa tại nhà riêng.
          Tôi đến nhà anh Hoà vào lúc xế chiều. Nhà anh ở , cũng là địa điểm chữa răng ngoài giờ ,có bề ngòai khiêm tốn nằm khuất trong một ngõ hẻm gần đầu đường Phạm Viết Chánh .Tuy đến không báo trước nhưng anh đã dành cho tôi những giây phút tiếp chuyện rất cởi mở , chân thành .
Người viết (NV) : _Thưa anh , trên cương vị là người thay mặt BLLCHS , anh có thể cho biết vài nét về mục đích cũng  như quá trình  thành lập ?
Anh Hòa: _BLLCHS thành lập từ năm1990. Lúc đầu ban liên lạc  chỉ có 3 : tôi với  anh Lý Diệu Quảng và anh Tăng Quốc Ngọc. Khi anh Quảng bận việc xin rút thì BLL được bổ sung thêm một số anh chị khác là anh Nguyễn Bá Giỏi, Trần Thiện Bật , chị Kim Minh và chị Nguyễn Thị Nhỏ . Lúc ban đầu, mục đích cuả BLLCHS rất đơn giản .Tất cả chỉ là tấm lòng cuả những người học trò đối với mái rường ngày xưa. Như  anh đã biết , thành phố Phan Thiết những năm sau giải phóng đâu có bộ mặt đẹp đẽ , giầu sức quyến rũ  khách du lịch như bây giờ . Học sinh phải học tập trong những hoàn cảnh khó khăn , thiếu thốn về cơ sở cũng  như phương tiện học tập . Bởi thế ,sau một vài lần về thăm trường, tôi và một số bạn có chung một suy nghĩ phải làm cái gì đó để giúp đỡ cho trường cũng  như  cho thế hệ đàn  em cuả mình . Ban liên lạc được  lập ra rồi chúng tôi liên hệ với các bạn cũ không phân biệt lớp hay khoá gì hết. Buổi họp mặt lần đầu chỉ vài  chục người. Sau này các bạn tham dự giới thiệu thêm nên con số người về dự đã tăng lên dần .Mấy kỳ họp mặt gần đây đều trên dưới một  trăm người .
NV  :_ Anh có thể cho biết  về thành phần dự họp hàng năm .Cụ thể làsố  cựu học sinh mấy khóa đầu có về dự đủ không và sự hiện diện cuả thầy cô như thế nào ?
Anh Hòa :_ Có đủ các bạn từ những khoá đầu chứ anh ! Tôi có thể nêu cụ thể một số người .Chẳng hạn như  khóa I có chị Nguyễn Thị Lệ Hồng, anh Trần Thiện Hiệp (Việt kiều) ,Trương Tiến Huy. Khóa II có chị Nguyễn xuân Trang , Nguyễn thị Nại , anh Đặng Văn Tâm , Nguyễn Văn Chương. Khóa III ,IVcó anh Trần Thiện Bật, Phan Nguyên Lý , Nguyễn Đình Bốn , Phan Hoàng Quý. Khóa V là khóa cuả anh đó , đông lắm có lẽ tôi không nhớ hết như các anh Nguyễn Ngọc Tài , Lê Văn Son , Phạm Gia Cẩn , Phạm Văn Nghệ , Lê Quang Chiêu , Nguyễn Duy Điểu ,Lê Thiệu Hùng và (cười ) cả anh nữa...Về các thầy cô ở thành phố Hồ Chí Minh ,người nào mà chúng tôi biết thì đều mời hết . Nhưng có vài thầy cô ở ngọai thành vì tuổi cao , sức yếu  tham dự không đều , có năm đi , có năm vắng mặt .
NV :_ Anh có nắm được danh sách các thầy cô và địa chỉ  chăng ?
    Anh Hòa : _ Có chứ . Liên hệ được thầy cô nào tụi mình cảm động lắm nên làm sao quên được. Ở nội thành có thầy Ngô Quang Chương , Sơn Hồng Đức,  Lê Mậu Thống , Lê Sĩ Bình,  Đòan Mậu ,  Hòang Đức Bào, cô Phạm Thị Hoa,  Nguyễn Thị Xuân Anh , Đào Thị Ngọc Quán . Ở ngọai thành có thầy Trần Phụng Tường , Lê Minh Thuận ,  Bùi Hữu Huân ... Nếu trong các bạn có ai cần địa chỉ và điện thọai cuả các thầy cô , xin cứ liên hệ với tôi  .
NV : _ Tôi được biết BLLCHS đã cấp nhiều học bổng cho học sinh trường Phan Bội Châu .Anh có thể cho biết rõ hơn về nguồn tài trợ học bổng không ?
Anh Hòa :_ Lấy từ quỹ học bổng Phan Bội Châu do các cựu học sinh ủng hộ trong những buổi họp mặt. Mỗi năm chúng tôi cấp 10 suất . Có năm số học bổng cấp phát lên tới 15 suất nhờ sự vận động tích cực của những thành viên thiện chí như anh Thiện Bật, anh Ngọc Tài .Các anh vận động bạn bè ở thành phố , từ cựu học sinh ở Mỹ.Bên cạnh số học bổng cấp phát thường xuyên , BLLCHS còn tặng thêm phần thưởng cho những học sinh Phan Bội Châu  nào đạt thành tích trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Không chỉ cấp học bổng ,BLLCHS còn quan tâm giúp đỡ những học sinh tật nguyền vượt khó học tập.Đó là trường hợp em Nguyễn Thị Nhiên ,học sinh lớp 11,có chân giả bị hư đã được chúng tôi giúp đỡ phục hồi lại .
NV : _Xin hỏi ban liên lạc có theo dõi hiệu quả của những học bổng được cấp ?
Anh Hòa :_ Nhiều  học sinh được học bổng đã học tập rất tích cực và đạt thành tích cao . Ví dụ có em thi đậu vào 3 trường đại học ,có em đang học năm thứ ba Đại học y khoa, có em đậu cao học đi Úc ...Những thành tích đó chứng tỏ các em đã không phụ lòng mong mỏi cuả chúng tôi .Ngoài học bổng ,BLLCHS còn có mà số hoạt động khác hướng về thầy cô .Chúng tôi phân công nhau đi chúc tết thầy cô trong những dịp tết và ngày 20.11.Thăm hỏi thầy cô đau yếu .Thầy cô nào tròn 70 tuổi,80 tuổi,chúng tôi tổ chức tặng quà .
NV : _ Một câu hỏi cuối : Mỗi năm BLLCHS đều có tổ chức một buổi họp mặt . Có khi nào anh gặp khó khăn trong quá trình hoạt động chăng ?
Anh Hòa :_ Hằng năm, chúng tôi có tổ chức họp mặt định  kỳ cho bạn bè ,thầy cô sống tại thành phố Hồ Chí Minh . Lúc đầu , chúng tôi có hơi lúng túng trong việc chọn địa điểm họp mặt : có năm ở nội thành ,có năm ở ngọai thành. Những năm gần đây,các buổi họp mặt thường được tổ chức vào ngày chủ nhật tại Trung tâm nghe nhìn giáo dục, số 240 Trần Bình Trọng Q5 .Các buổi họp mặt thường gọn nhẹ, thoáng chủ yếu để bạn bè có dịp gặp gỡ nhau và thăm hỏi thầy cô .Chương trình thường mở đầu với bài Phan Bội Châu hành khúc của thầy Chung .Những âm hưởng quen thuộc đong đầy kỷ niệm khiến ai cũng không khỏi bồi hồi . Nhưng cảm động hơn là mọi người được gặp lại những thầy cô xưa .Các vị là thần tượng cuả chúng ta khi còn bé . Hôm nay tuy đã da mồi , tóc bạc nhưng thầy cô không ngại sức yếu ,tuổi tác vẫn tới họp mặt với học trò .Chính  sự hiện diện quý báu đó đã góp phần không nhỏ vào sự thành công cuả các buổi họp mặt.
        Giã từ anh Hoà ra về ,chúng tôi thấy có những người bệnh đang ngồi ở trong phòng đợi .Hình ảnh đó làm cho chúng tôi thêm cảm phục một con người tuy rất bộn bề công việc trong cuộc sống nhưng vẫn nhiệt tình cống hiến vì mái trường xưa .                                                                                
           BLLCHS  bây giờ không còn hoạt động nữa nhưng thành quả của nhóm nói chung và của các bạn cựu học sinh ở TPHCM  nói riêng vẫn rất  đáng được trân trọng ghi nhận.

                                                     ______________
                         

       ĐÊM CHONG ĐÈN NGỒI NHỚ LẠI
                                                                                               Hoàng Công Bình

        Năm 2002, Trường tổ chức kỉ niệm 50 năm ngày thành lập, năm 2012 kỉ niệm 60 năm. Rồi sẽ đến lúc kỉ niệm 70, 80 năm…Ở những mốc thời gian đặc biệt này, nhiều người trong chúng ta tự hỏi: Mấy chục năm qua trường THPT Phan Bội Châu Phan Thiết đã làm được gì cho đời và để lại gì trong lòng người, nhất là đối với những người đã từng học tập, từng giảng dạy, từng công tác, từng gắn bó với trường.
         Thực cũng khó để nói được đầy đủ chính xác, bởi thành quả của hoạt động giáo dục trong một quá trình gần trọn đời người, không dễ nói hết được bằng những điều cụ thể. Lao động sư phạm là một loại hình lao động mà sản phẩm không thể đem ra trưng bày, không thể định giá bằng những chuẩn mực cân đo đong đếm, thành tích mà chúng ta nói với nhau cũng chỉ là ước lệ. Thực chất tiềm ẩn trong từng con người được hưởng thụ giáo dục. Dẫu không trực tiếp biến thành xương cốt, thành máu thịt của con người nhưng lại chi phối rất lớn đến sự hình thành tri thức, đi vào tâm hồn vào tình cảm con người, thể hiện nhân cách sống, chất lượng sống của từng con người và của cả xã hội. Hiệu quả của hoạt động giáo dục rất rộng, rất đa dạng, có những hiệu quả thể hiện cụ thể nhưng cũng có những hiệu quả tiềm ẩn khó nhận ra. Tuy vậy, trong một chừng mực tương đối, chúng ta cũng có thể thấy đôi điều trường Phan Bội Châu đã làm được.Ví như, trong chức năng dạy học bậc trung học ở địa phương.
       Căn cứ vào số học sinh vào trường, ra trường trong 60 năm qua thể hiện trong sổ sách còn lưu trữ tại trường, tuy không đầy đủ do một vài năm bị thất lạc nên không thực sự chính xác, nhưng cũng có độ tin cậy.
 Số vào trường qua 60 kì tuyển sinh: 48929
Vào lớp 6 :
Từ năm học 1952- 1953 đến năm học 1974-1975: 8846.
Từ năm học 1994-1995 đến năm học 1999-2000: 2592.
Tổng đầu vào lớp 6: 11438.
Vào lớp 10 :
Từ năm 1959-1960 đến năm học 2010-2011: 37491.
     Ngoài số học sinh vào trường qua các kì thi tuyển, còn một số không nhỏ học sinh chuyển từ các trường khác đến, có năm số chuyển trường vào rải rác các lớp lên đến 20%-30% số trúng tuyển. Phải chăng đây là biểu hiện của lòng tin của phụ huynh học sinh muốn gởi gắm con em mình cho nhà trường dạy dỗ.
Số học sinh ra trường qua 55 kì tốt nghiệp : 38184
Số ra trường qua kì thi Trung học đệ nhất cấp, Trung học cơ sở: 8248.
Trung học Đệ Nhất cấp (1956-1975) : 5482.
Trung học cơ sở (1994-2003) : 2766. (Từ năm học 1975-1976, đến năm học 1993-1994 trường không có cấp II, trung học đệ nhất cấp)
Số ra trường qua kì thi Tú Tài, Tốt nghiệp THPT: 29936.
Chỉ tính riêng số trúng tuyển vào lớp 10, (đệ tam):37491
Số tốt nghiệp Trung Học PhổThông (Tú Tài) : 29936
Tỷ lệ của hiệu quả đào tạo gần 80% là một tỷ lệ khá cao đối với bậc học THPH (TH Đệ nhị cấp)
        Dựa vào những con số trên có thể đánh giá được hiệu quả giáo dục của nhà trường. Song, điều có ý nghĩa hơn, có giá trị và đáng được trân trọng hơn được biểu hiện qua sự lớn lên trong từng cá thể học sinh.
Khi vào trường, là những cô cậu bé vừa học xong cấp một, hoặc hết cấp hai với những hiểu biết cơ sở. Sau một thời gian học tập và rèn luyện ở trường, những cô bé, cậu bé ngày trước đã lớn hẳn lên. Sự lớn lên không chỉ bằng chiều cao, cân nặng, không chỉ bằng những điều học hỏi được qua giáo khoa những môn cơ bản, mà còn qua các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; có những tiềm năng văn nghệ thể thao, giao lưu và các mối quan hệ xã hội có điều kiện thành năng lực tao nên thành quả chung cho một con người và cho một ngôi trường, trường Phan Bôi Châu. Và, những cô cậu bé ngày trước ấy thoát xác thành những thanh niên tuấn tú, với”học vị”Tú tài, đủ tri thức đễ học tiếp đại học hoặc cũng vững vàng tự tin đi vào cuộc sống. Đây là nhiệm vụ chính nặng nề mà trường Phan Bội Châu đã hoàn thành, đặc biệt, trong điều kiện có nhiều có khăn.
Nhớ lại buổi ban đầu chỉ với tấm lòng của 14 Thầy giáo không xuất thân từ các trường sư phạm, nhưng lại có lòng yêu nghề dạy học đến tuyệt vời. Xin được trân trọng bày tỏ lòng cảm phục và biêt ơn quý Thầy.
      Chỉ 14 thầy đã phải xoay sở mọi điều từ lập hồ sơ xin phép, mượn cơ sở phòng ốc, tổ chức tuyển sinh, thống nhất chương trình giảng dạy (sự chỉ đạo từ trên ngày ấy rất mờ nhạt), để có được ở Phan Thiết một Trường Trung Học đầu tiên, với tên Trường Trung học Bình Thuận, khai giảng vào ngày 15 tháng 9 năm 1952 tại Trường tiểu học Đức Thắng (nay là trường Tiểu học Đức Thắng 2). Trường có 2 lớp đệ thất (lớp 6) 120 học sinh. Hình ảnh các Thầy, các học sinh trên sân trường trong ngày khai giảng của năm học đầu tiên, nay đã vượt lên hình ảnh của những con người cụ thể thăng hoa thành những giọt nước đầu tiên khởi nguồn cho một dòng chảy-một dòng chảy thân thương chảy suốt 60 năm qua và còn tiếp tục chảy trên quê hương Phan Thiết này. Trong dòng chảy đó có hình ảnh những tà áo dài trắng nữ sinh làm sáng cả con đường Nguyễn Hoàng-Lê Hồng Phong vào những giờ tan học. Trong dòng chảy đó có tiếng hát hồn nhiên ngọt ngào trong những buổi văn nghệ phát thưởng cuối năm tổ chức ở các nhà hát Ngọc Thúy, Lilas hay những đêm văn nghệ mừng ngày nhà giáo 20 tháng 11 tại nhà hát ngoài trường trên quảng trường Nguyễn Tất Thành. Trong dòng chảy đó có không khí sôi nổi của những trận bóng đá giành cúp vô địch các trường trung học Nam Trung Bộ năm 1960, vô địch học sinh trung học phổ thong Bình Thuận trong thập niên 90 của thế kỉ trước. Trong dòng chảy đó có ánh lửa trại bập bùng ở đồi Ngọc Lâm, ở Hố Lở Phú Hội, ở Đồi Dương, ở rừng keo lá tràm Tiến Lợi. Trong dong chảy đó có cả mồ hôi trên công trường thủy lợi Sông Pha, trên đập nước Phú Hội, trên nhà máy điện Hàm Liêm, trên nương rẫy Bình Tú, trên hồ nuôi tôm Vĩnh Thủy. Nhưng đậm đà hơn hết, trong dòng chảy đó vẫn là hình ảnh những lớp học Thầy tận tâm, trò nỗ lực, chăm chỉ miệt mài. Từ đó đến nay đã 60 thế hê học sinh nên người. Thực đáng trân trọng!
        60 năm qua, trường đã thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học bậc trung học ở quê hương Phan Thiết-Bình Thuận. Không ít học sinh xuất thân từ ngôi trường thân thương này đã thành đạt trong đời sống xã hội, không ít đã và đang đảm đương những vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Nhưng quan trọng hơn là hầu hết đã nên Người tử tế, sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xóm làng, với cộng đồng, với xã hội, gắn bó thủy chung với Trường, luôn nghĩ và nhớ về nhà Trường như nghĩ và nhớ về 1 cội nguồn, luôn nghĩ và nhớ Thầy Cô như nghĩ và nhớ về cha mẹ, luôn nghĩ và nhớ về bạn bè thời đi học như nghĩ và nhớ về anh em ruột thịt. Đó là điều quí báu mà Trường đã làm được. Đó là điểm sáng, tạo nên niềm tin yêu, và tín nhiệm trong lòng người dân Phan Thiết- người dân Bình Thuận. Đó là truyền thống tốt đẹp mà các thế hệ sau này của Trường phải gìn giữ và phát huy.
      Thực ra mấy năm đầu mới thành lập, với đội ngũ 14 Thầy hầu hết có tính nghiệp dư trong nghề dạy, chưa có phòng ốc trường lớp, chương trình giảng dạy, sách vở học tập chỉ mới bước đầu đi vào qui củ và xây dựng nề nếp, nên 1 số gia đình khá giả, có điều kiện ở địa phương vẫn chưa cho con em mình dự tuyển vào trường mà còn gởi đi”du học”ở các tỉnh khác như Nha Trang, Sài Gòn thậm chí cả Huế, Đà Lạt, nhưng chỉ cần ba, bốn năm sau, nhờ Thầy tận tâm với nghề, thể hiện hết tình thương và trách nhiệm trong từng hoạt động sư phạm. Trò chăm chỉ học tập quên mình để bù vào 1 thời”đói học”của cha anh nên dù còn trăm thứ bộn bề, nhưng Trường đã ra Trường từ độ đó. Trường đã có sức hút giáo dục, sức hút sư phạm ngày càng mạnh mẽ; không chỉ số lượng học sinh ghi tên thi dự tuyển vào trường ngày càng đông, mà số học sinh Phan Thiết- Bình Thuận những năm về trước đi”du học” ở các tỉnh cũng lần lượt rủ nhau xin chuyển về. Mong muốn được học trường Phan Bội Châu không chỉ là của học sinh mà còn của nhiều phụ huynh, gia đình đối với con em mình. Tập thể sư phạm nhà trường đã xây dựng một địa chỉ giáo dục có uy tín, được cộng đồng tin cậy. Từ một trường Trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở) năm 1952- 1953, năm sáu năm sau đã mở thêm những lớp đệ tam, đệ nhị (lớp 10, lớp 11) của bậc đệ nhị cấp (cấp III). Đến 10 năm sau, năm học 1962- 1963, Trường đã có học sinh đầu tiên dự thu Tú tài toàn phần và đã cho vào đời những cô Tú cậu Tú đầu tiên”made in Phan Bội Châu- Phan Thiết”. Đến nay xấp xỉ bốn mươi ngàn tú tài dành cho học sinh xuất thân từ trường Phan Bội Châu. Đó là một thành quả không nhỏ được thể hiện bằng con số. Nhưng cái không thể hiện được bằng con số lại lớn hơn.
Lại cũng ví như, trường đã tạo cơ hội cho tuổi trẻ Phan Thiết- Bình Thuận bộc lộ tinh thần hiếu học của mình. Khơi dậy năng lực học tập.
      Trước năm 1952, lúc mà ở Bình Thuận chưa có trường trung học, ngoài con em của một số gia đình khá giả sau khi học xong tiểu học được cho đi các nơi khác học tập tiếp, đa số còn lại đều ngậm ngùi an phận với câu Văn chương không bằng xương cá mòi và phó thác cuộc đời đói chữ của mình cho sông nước, cho biển cả. Trong cái thế chẳng đặng đừng đó lại bị mang tiếng dân quê mình xem thường cái chữ nghĩa. Năm 1952, Trường Phan Bội Châu đã mang cái học bậc trung học về đây, là cơ hội tốt để con em Phan Thiết- Bình Thuận, thể hiện tinh thần hiếu học. Vào những năm 50-60, ai đã từng ở Phan Thiết, nếu có dịp ra đường vào 4, 5 giờ sáng chắc sẽ nghe râm ran những tiếng học bài trong những căn nhà nhỏ, dưới vùng sáng hiu hắt của ngọn đèn dầu! Hoặc có dịp vào nhà, chắc sẽ thấy, trên tường, trên vách cột, thậm chí có khi trên cả mặt bàn mặt ghế ghi đầy những công thức toán học, công thức vật lý, phản ứng hóa học, các mốc thời gian đáng nhớ của lịch sử, các địa danh đặc biệt. Từ đó có thể biết, trong nhà có con em đã hoặc đang học lớp nào của trường Phan Bội Châu. Cái học được bày ra khắp nơi, ai cũng nghe, cũng thấy và cũng mừng thầm cho cái ngày mai ở vùng đất này.
      Trong khóa thi tú tài II năm 1963 tổ chức tại Nha Trang dành cho học sinh các tỉnh Nam Trung Bộ, Bình Thuận có 70 học sinh của 2 lớp đệ nhất trường Phan Bội Châu. Là những học sinh tỉnh lẻ ra Nha Trang còn mang theo vị mặn của biển muối, cái ngai ngái nồng nàn của nước mắm làm mấy cô, mấy cậu nhà mình rụt rè tự ti đến tội nghiệp. Trong cái mặc cảm thua thiệt đó đã thầm thúc đẩy nhau cố gắng cho bằng người, ít nhất cũng trong học hành thi cử. Trong buổi xướng danh (đọc tên những người tốt nghiệp), các cô các cậu nhà mình cũng xúm xít bên nhau trong góc vắng của sân trường Võ Tánh, nhưng chính trong cái góc vắng đó lại vang lên nhiều tiếng vỗ tay reo hò hơn cả. Tối hôm đó, trên đường phố Nha Trang, những cô Tú, cậu Tú tân khoa  “made in Phan Bội Châu-Phan Thiết”hết sức tự tin nhìn người và nhìn đời. Xin cảm ơn các Thầy Cô, xin cảm ơn nhà Trường đã cho những thế hệ học sinh mình góp mặt với đời một cách vững vàng, tự tin.
Hôm nay, đứng ở sân trường, nhìn những phòng học trên những tầng lầu kiên cố, sáng sủa. mát mẻ, đẹp đẽ; nhìn các phòng làm việc, thư viện, khu thí nghiệm thực hành, nhà luyện tập và nhà thi đấu đa năng; rồi trang thiết bị, sách vở… tất cả đều hơn hẳn năm, sáu mươi năm về trước. Thực đáng mừng, đáng tự hào và phải hết sức trân trọng giữ gìn. Song thời gian sẽ làm cho gạch đá, kể cả sắt thép cũng phải hư hỏng, chắc chắn sẽ được thay thế tốt hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn. Chỉ mong Nếp trường còn được giữ mãi và ngày một dày thêm.
                   Sáu mươi năm trước đây là mộng
                   Hiện thực bây giờ cũng tưởng mơ
                   Bến Ngự Người đi hồn đọng lại
                   Đồng tâm hậu thế “ Nhật nhật tân”

                                                          Phan Thiết, tháng 4 năm 2011
                                                                                 
                                                    ___________

                     
         Tập thơ của Thầy Trần Phụng Tường
                                                              Hoàng Công Bình


Để chuẩn bị tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trường (17-11-2002), tôi và một số cán bộ giáo viên vào thành phố Hồ Chí Minh, thăm các Thầy, Cô giáo đã giãng dạy tại trường Phan Bội Châu. Chiều ngày 15 tháng 10 năm 2002, chúng tôi đến thăm thầy Trần Phụng Tường, thầy dạy chúng mình môn Pháp văn những năm học Đệ Nhị cấp. Khi ra về Thầy tặng tôi tập thơ của Thầy, với dòng chữ:
“Kính mến biếu anh Bình, với lời chúc
 tốt đẹp nhất trong mọi sự.Để kỷ niệm”.
                   15-10-2002 Trần Phụng Tường
Cô (vợ Thầy), cho chúng tôi biết: Tập thơ này được xem như một kỷ niệm về Anh một người chồng, người cha, một nhà giáo luôn yêu sự chân thiện mỹ, chỉ phổ biến trong gia đình giữa vợ chồng, con cái, một vài người thân và học trò cũ. Tôi là đối tượng thứ tư được đọc thơ của Thầy, thế mà Thầy đề tặng. Tôi xúc động và ái ngại thưa với Thầy. Cô mượn lời Nguyễn Du:”Của riêng còn một chút này làm tin”.
 Kính trích và giới thiệu với các bạn bài “Phan Thiết” :

                                             Phan Thiết                                    
                                                  Trích tập “ Thơ Trần Phụng Tường”

 Tôi đi tìm
 Hàng vông vang quàng khăn đỏ
 Màu môi tươi rói sắc xuân
 Dòng Cà Ty, ngôi công viên bé nhỏ
 Nắng lụa chập chùng…
 Lầu nước chênh vênh…
 Tôi đi tìm
 Con đường giữa: Gia Long
 Rộn ràng buôn bán chợ xuân
 Quang gánh trên vai tất tả
 Những nàng thôn nữ da”bần quân”
 Tôi đi tìm
 Hàng dương Thương Chánh cũ
 Bình Hưng lởm chởm cánh buồm cao
 Từ biển khơi gió về lồng lộng
 Tết đến rồi ghe cũng nôn nao
Tôi đi tìm
Ngôi trường Nam chốn cũ
Tên học trò nhỏ ngu ngơ
Lăng xăng bên chiếu bầu cua
Quên cả nắng vàng…
Quên cả tuổi thơ…
Tôi đi tìm
                       Một tà áo trắng
 Biển xanh sóng vỗ gọi tên em
 Ngọc Thạch trời cao mở rộng
 Nhớ nhung vị mặn môi mềm…
Tôi đi tìm
 Gió mùa Đông Bắc ngày áp Tết
 Ngựa hoang sải vó trên cánh đồng
 Tân Xuân, Bình An, Cây Trôm gió hí
 Gay gay se lạnh mùa đông
 Tôi đi tìm
 “Phan Thiết! Phan Thiết! Phan Thiết!”
 Anh sẽ về ôm siết lấy em
 Trận mưa hôn như điên, như dại
 Ta với mình
 Khác nào biển cả với sao đêm

                                                         ____________


           Thư Pháp cảm tác từ bài thơ Phan Thiết 
                                                                                                         
                                                                                                 Phạm Gia Cẩn

                                                                                                       
                                                                                                 
                                                    ____________


CHUYỆN BẠN BÈ DƯỚI MÁI TRƯỜNG PHAN                                                                            Nguyễn Đình Thăng   
  
         Thuở bé học tại trường Nam tiểu học Phan Thiết,mỗi ngày tôi phải đi qua cầu sắt bắc ngang sông Cà Ty.Cây cầu sắt kiên cố nhưng dầm cầu lót bằng những thanh gỗ từng gây cho tôi cảm giác ơn ớn mỗi khi đi qua.Nguyên do bởi những chiếc bù loong qua lâu ngày mưa gió bị sét rỉ lỏng ra khiến những thanh gỗ xộc xệch kêu lọc xọc mỗi khi xe cộ chạy ngang.Cây cầu sắt Phan Thiết đã đi vào lịch sử của thành phố và là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều văn thi sĩ cùng khách du lịch.
      Với tôi, cây cầu sắt cũng để lại một vài kỷ niệm khó quên.Tôi còn nhớ những ngày nghỉ học hay rủ đứa em trai ra gầm cầu chơi.Trong lúc nó mò mẫm hốc đá lượm vỏ sò hoặc bắt coòng thì tôi leo lên tảng đá cao gần chân cầu để câu cá.Đồ nghề của tôi chỉ là mươi thước dây cước quấn quanh cái lon sữa bò.Mồi là những con giun đất móc vào lưỡi câu.Trên lưỡi câu tôi cột một cái khoen bù lon sắt. Nắm chặt chiếc lon,huơ tay lấy đà rồi  quăng mồi câu ra xa.Khi nghe tiếng tõm vang lên và thấy dây cước căng là biết mình đã quăng câu xong. Sau đó,tôi chỉ việc ngồi ung dung ngắm cảnh xe cộ qua cầu hoặc thả hồn theo dòng nước lững lờ trôi.Chờ đến khi dây câu căng giật, tôi mới đứng lên kéo mạnh sợi dây.Thành quả tôi thu được từ những buổi câu không giá trị lắm vì cá mắc câu đa phần là cá chốt, cá lòng tong…Vui là chính nên khi ra về tôi thường thả chúng xuống nước.Hoạ hoằn hôm nào câu được cá bống hay cá đối thì tôi mới mang về hý hửng khoe mẹ.
   
Hồi mới cùng bố mẹ đến Phan Thiết sinh sống,tôi lạ lẫm với mùi nước mắm ngập tràn thành phố. Nhưng thời gian đã giúp tôi quen dần và cảm nhận khác với thuở ban đầu.Khi đi đâu xa tôi lại thấy nhớ cái mùi thơm nước mắm rất đặc trưng chỉ có ở Phan Thiết. Tôi nhớ mãi một kỷ niệm lên quan đến nước mắm Phan Thiết. Đó là lần đi chợ Tết với mẹ vào một ngày cuối năm. Lúc về mẹ mua thêm một tĩn nước mắm (khoảng 3 lít rưỡi).Hai mẹ con tay xách nách mang đồ sắm tết. Vì tĩn nước mắm khá nặng,mẹ và tôi chia nhau xách mỗi người một tay.Ra khỏi chợ,lẽ ra lên xe ngựa về cho khỏe nhưng tôi không nghe ngại tốn tiền của mẹ. Rủi thay, mới qua khỏi đầu cầu thì chiếc quai làm bằng nan tre bung ra.Tĩn nước mắm rơi xuống đường bung nắp, nước mắm chảy tung toé. Mẹ không mắng nhưng nét mặt người rười rượi buồn khiến tôi nước mắt lưng tròng.
     Học xong tiểu học,tôi thi đậu vào lớp đệ thất trường Phan Bội Châu,ngôi trường trung học danh giá nhất tỉnh.Thêm một cái may đến với tôi là ngay từ năm học 1956-1957, học sinh trường Phan được học tại cơ sở  mới ở đường Nguyễn Hoàng nên từ giờ hàng ngày đi học tôi không phải mất công qua cầu. Bước vào bậc trung học,tôi có thêm nhiều bạn bè  mới.Các bạn đến từ mọi vùng trong tỉnh : có người thành phố, có người vùng quê, có cả những bạn ở Bắc di cư vào.Tuổi nhỏ hồn nhiên, trong trắng nên chúng tôi dễ hòa đồng,dễ cảm thông,sẵn sàng giúp nhau học tập.Chính những tính cách hồn hậu chân chất đó đã dệt nên những kỷ niệm bạn bè đẹp đẽ khó quên trong những năm theo học dưới mái trường Phan.
       Người bạn ngồi chung bàn trong lớp với tôi là Tăng Văn Kháng. Bố của Kháng là ông Tăng Khánh chủ nhà sách,nhà in Vui Vui lớn nhất thành phố và cũng là ông bầu bóng đá nổi tiếng ở Phan Thiết.Sau 1975, nghe nói Kháng rất ít khi gặp bạn bè.Là bạn học cũ gần gũi,cố gắng lắm tôi cũng chỉ được gặp Kháng một lần trong dịp ra Phan Thiết hỏi vợ cho con. Nghe anh kể chuyện mới hiểu ra nguyên do nhưng là tâm sự nhạy cảm khó nói.
   
Ngồi gần tôi trong lớp ngay đầu bàn dưới là Huỳnh Ngọc Phẩm.Phẩm là người bạn hiền lành,tốt bụng,hay giúp đỡ bạn bè.Sau khi tốt nghiệp cao đẳng sư phạm,anh là một trong những cựu học sinh sớm trở lại trường Phan Bội Châu để sánh vai với thầy cô xưa dạy những thế hệ học sinh lớp sau mình.Lần ra Phan Thiết họp mặt nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường Phan, anh mời tôi đến nhà chơi.Thấy hai vợ chồng cùng nghề sư phạm mà có được ngôi nhà xinh xắn tiện nghi tôi cũng mừng.Lúc giã từ,anh hỏi tôi trưa mai ở lại được không ? Tôi nói mua vé rồi sáng sớm sẽ về Sài Gòn.Anh trầm ngâm trước lúc chia tay.
Sáng hôm sau,lúc vợ chồng tôi đã lên xe đò ngồi chỉ còn chờ tài xế hoàn tất thủ tục xuất bến, tôi chợt nghe Phẩm gọi điện thoại bảo chờ chút có việc muốn gặp.May  Phẩm đến kịp trước lúc xe chạy.Anh trao cho tôi một gói quà bảo của bạn bè lâu ngày gặp lại.Cầm gói quà dù chưa biết là gì nhưng tôi nao lòng xúc động trước tấm chân tình của người bạn xưa.
      Vài năm sau, tình cờ một lần vào Vnexpress online tôi đọc được mẩu chuyện của tác giả Hoàng Xuân viết về một người thầy mang tên “Huỳnh Ngọc Phẩm” :
“Có một chuyện "đánh trò" khác, nhờ ứng xử của thầy giáo tôi, lại trở thành kỷ niệm rất vui của lớp. Khi ấy tôi học lớp 8. Giờ ra chơi, bọn con trai xông vào cầm miếng vỏ quýt xịt vào mắt nhau. Chúng hăng đến nỗi không thấy thầy bước vô lớp. Thầy tôi tên Huỳnh Ngọc Phẩm, đã nghỉ hưu lâu rồi. Thầy là giáo viên dạy toán giỏi có tiếng ở Phan Thiết. Thầy tôi liền bắt tất cả bọn con trai chơi trò đó lên đứng hàng ngang trước lớp. Một đứa khác, tôi vẫn nhớ nó tên Trung, phải cầm miếng vỏ quýt lần lượt xịt vào mặt tất cả bọn còn lại.
Ôi là buồn cười! Bọn bị phạt cười, thằng đi xịt cười, cả lớp ôm bụng cười bò. Cười lăn quay nên Trung chỉ xịt lấy lệ, cũng chẳng xịt trúng được vào mắt đứa nào.
      Thầy tôi thì nghiêm nghị đứng nhìn bọn nó chịu phạt, mắt hơi cau lại nhưng miệng cũng nén cười.Cười xong, thầy giảng: 'Mấy đứa thích xịt vỏ quýt vô mắt cho người ta cay, vậy thì phải bị xịt lại cho biết sao là cay".
Thật dễ nhớ! Tôi đã nhớ suốt đời! Thầy tôi khiến tôi nhận ra rằng không phải hễ bị "đánh" đều là bạo lực, xúc phạm. Vì bên cạnh "đánh" còn có "đánh yêu".

            Một kỷ niệm bạn bè khác liên quan đến việc tôi mê xinê thời đang học trường Phan. Thuở đó dù học tập chăm chỉ nhưng cứ sáng chủ nhật tôi cố tìm lý do ra khỏi nhà để đi xem phim chiếu thường trực tại rạp Modern nằm trên đường Gia Long. Người đồng điệu nghệ thuật thứ bẩy với tôi là Cao Văn Minh.Anh bạn người Bắc di cư này tuy học thường thôi nhưng có óc sáng tạo về hội họa.Đôi lần anh dám tranh luận về quan điểm với giáo sư môn hoạ là thầy Mậu.Thấy tôi cận thị nhưng không chịu mang kính cứ phải ngồi ở những hàng ghế sát màn ảnh,anh cho tôi một cái kính cận cũ.Nhờ vậy tôi xem phim quá đã vì có thể ngồi tại hàng ghế cuối vẫn xem phim rõ.Nhưng do đeo không đúng độ nên xem xinê về tôi hay bị nhức mỏi mắt. Hậu quả là khi chính thức đeo kính thì số đo kính của tôi đã gần 3 diop.
      Năm 2014, sau hơn nửa thế kỷ xa cách,tôi mới có dịp gặp lại Minh nhờ liên lạc qua địa chỉ email của anh ghi lại trong một buổi triển lãm hội họa tại nước ngoài.Tưởng mình là người đầu tiên gặp lại bạn xưa nhưng không dè hôm Minh hẹn tôi đến nhà chơi tiện thể dùng cơm thân mật với vợ chồng anh,tôi còn gặp một số bạn học Phan Bội Châu khác trong số có Lê Quang Chiêu và Nguyễn Văn Son ...
         Trong các bạn bè trường Phan tại Sài Gòn , tôi rất ấn tượng với Phạm Gia Cẩn vì bạn mang phong cách hao giống ông thầy đồ trong Nho học ngày xưa.Cẩn vốn là con ông Phạm Gia Huệ,thầy dạy năm lớp nhì của tôi tại trường Nam tiểu học Phan Thiết.Là giáo viên hưu trí nhưng Cẩn đã có gần hai chục năm theo đuổi nghệ thuật thư pháp. Cẩn quan niệm thư pháp là thú vui nghệ thuật và theo anh đã gọi là nghệ thuật thì không thể tính bằng tiền.Thế nên Cẩn không sử dụng thư pháp để kiếm tiền.Bạn bè ai thích hoặc cần đến thư pháp thì Cẩn sẵn sàng giúp.Năm 2010,Cẩn được vinh danh trong “Ngày hội 100 Ông đồ Việt” tổ chức tại Ninh Bình.Bạn được công nhận là người viết quyển “Kinh Pháp Cú” lớn nhất từ trước đến nay.Trong ngày Hội hôm đó , rất đông người đã vây quanh Ông đồ Cẩn để xin chữ do hâm mộ người có “ Hoa tay thảo những nét , Như phượng múa rồng bay” .
       Cẩn rất chân tình với bạn bè. Cứ mỗi năm vào chiều mồng hai Tết,bạn thường mời các bạn xưa đến nhà dùng bữa cơm thân mật tiện thể chúc phúc nhau nhân dịp đầu xuân.Lúc ra về, lắm khi bạn bè còn nhận được từ gia chủ một món quà xuân bất ngờ khiến ai cũng cảm động.Riêng tôi mỗi lần gặp gỡ Cẩn vẫn thầm mong bạn luôn luôn giữ được sức khỏe, giữ vững niềm đam mê nghệ thuật thư pháp để tiếp tục trải lòng qua nét bút góp phần tô đẹp văn hóa Việt.
 
 Một người bạn cũ khác cũng sống ở Sài Gòn nhưng bận rộn mưu sinh ít sinh hoạt với bạn bè là Nguyễn Sĩ Đức. Đức học chung ban B với tôi ở 2 niên khoá cuối. Năm 1963, Đức cùng với Lê Thiệu Hùng thi vào Đại học Y khoa Huế .Tốt nghiệp bác sĩ 1971 xong là có lệnh tổng động viên ,Đức phải khoác áo quân y,để số phần nổi trôi theo thời thế .Sau 1975 gặp lại tại Sài Gòn,lúc đó tôi mới hay bạn là bác sĩ. Không chỉ là chỗ bạn bè,Đức còn là ân nhân của gia đình tôi bởi nếu không nhờ Đức khám và phát hiện sớm bệnh suy thận thì vợ tôi đã phải lọc thận nhân tạo từ 5 năm trước.Tháng 7/2015, đến thăm Phạm Văn Nghệ đang nằm điều trị thận tại bệnh viện Nguyễn Trãi,tôi vội phôn cho Đức bện tình của Nghệ với hy vọng “còn nước còn tát” song Đức bảo “Bệnh suy thận của Nghệ đã chuyển sang giai đoạn cuối,buộc phải chạy thận nhân tạo để duy trì cuộc sống.Đành thôi,đó là cái giá phải trả…”Câu nói quen thuộc tôi vẫn thường nghe ở Đức ( bệnh tật là cái giá phải trả của con người khi về già,sớm hay muộn mà thôi ).Suy ngẫm tự bản thân và gia đình mình,tôi thấy điều Đức nói rất đúng.Càng đúng hơn khi một bác sĩ như bạn nhưng mỗi ngày cũng phải uống cả chục viên thuốc.
        Sẽ là thiếu sót nếu viết về chuyện bạn bè trường Phan mà không đề cập đến những người đã quá vãng.Không nắm được có bao nhiêu bạn cùng khóa đã theo học trường Võ bị SQĐL nhưng hai người tôi biết thì đều đã mất chỉ trong vòng một năm sau khi ra trường.Đó là Nguyễn Văn Trung, khóa 20 SQĐL (tử trận 1966) và Lê Văn Khen, khóa 23 SQÐL(tử trận 1969). Cả hai bạn đều mất tại chiến trường Long Khánh khi đang làm Ðại đội trưởng hành quân.Tôi cảm thương nhiều với Nguyễn Văn Trung vì việc lấy vợ của bạn không bình thường. Nó như điểm gở báo trước số phận một con người.Sự thể là khi Trung còn đang học trường SQĐL năm thứ nhất thì người yêu ở nhà đã mang bầu. Để giữ thể diện,nhà gái buộc gia đình Trung phải tổ chức đám cưới trước ngày con mình sinh nở. Do quy định ngặt nghèo của trường SQĐL nên một đám cưới đặc biệt đã diễn ra tại Phan Thiết.Đám cưới tổ chức đơn giản chỉ có những người thân tham dự nên rất ít bạn bè hay biết.Một người bạn được mời thế vai chú rể khi làm lễ cưới và đón dâu là Từ Ngọc Lâu.Lâu vốn là bạn học của Trung và là người quen thân với gia đình cô dâu nên được hai họ tín nhiệm trong vai trò chẳng ai muốn này.Điều trớ trêu là sau Trung tử trận thì người đi Sài Gòn lãnh xác Trung về Phan Thiết cho gia đình mai táng cũng chính là Từ Ngọc Lâu.Trong đời học sinh chúng ta ,hiếm thấy ai có tấm lòng tốt giúp đỡ bạn bè chân tình như thế !
         Các bạn khoá 5 ra trường giữa lúc đất nước đang mịt mù khói lửa chiến tranh ít ai thoát được binh nghiệp.Số bạn bị gọi vào trường SQTĐ đông hơn số theo học trường SQĐL.Một người leo lên được cấp tá là Lê văn Nhãn (cháu của thầy hiệu trưởng Lê Tá).Còn lại đa phần là cấp úy trong số có Mai Xuân Cúc,Lê Bá Bình… (có thể còn vài bạn nữa mà tôi không biết).Sau 1975 khi học tập cải tạo xong, các bạn đều đã định cư tại Mỹ trừ Huỳnh Ngọc Ghênh ( SQTĐ khóa 6/68) mất trong lúc đang cải tạo ở miền Bắc (1980).
        Một người bạn khóa 5 đã ra đi vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” là Từ Ngọc Nam (anh ruột của Từ Ngọc Lâu ).Nam cùng với Lâu không học lên đệ nhị cấp mà rời trường Phan Bội Châu sau năm học 1959-1960 để sớm theo đuổi nghề giáo.Khi còn dạy tiểu học tại  Phan Thiết, Nam nổi tiếng là giáo viên dạy luyện thi đệ thất giỏi nhất thành phố Biển. Học trò dưới sự dạy dỗ của Nam hầu như năm nào cũng đạt đến tỷ lệ thi đậu rất cao (trên 90% ).
       Từ Ngọc Nam cũng giống như Huỳnh Ngọc Phẩm là những người thầy rất được học sinh Phan Thiết yêu mến tuy dạy ở 2 cấp khác nhau. Chúng ta hãy nghe lời học trò của Nam viết trên một trang web :
       “Tôi nhớ đến thầy Từ Ngọc Nam chuyên dạy luyện thi đệ thất. Thầy có biệt danh mà chúng tôi ví ngầm với nhau là "Búa Thần". Cái búa bằng cao su, trông dáng ngoài cưng cứng, cán sắt dài hơn ba tấc, lúc nào cũng lăm le trong tay Thầy. Mỗi khi lên bảng chúng tôi đứa nào cũng ngán, tơ lơ mơ là ăn búa ngay.Sau này lớn khôn và từng trải trong cuộc sống, khi ngồi ôn lại những kỷ niệm buồn vui trong chuỗi ngày thơ ấu, Hữu Anh tôi mới nhận chân được một điều là sự nghiêm khắc của thầy vốn dĩ bắt nguồn từ sự tận tâm và lòng thương yêu đối với những đứa học trò nhỏ tuy có phần nào ngỗ ngáo nhưng lại hoàn toàn ngây thơ và vô tội này, cũng như ý thức trách nhiệm của thầy đối với những bậc cha mẹ đã đặt trọn vẹn niềm tin và tương lai con cái của  mình cho thầy.”
      Từ Ngọc Nam sớm ra đi không kịp dự kỳ họp mặt 4 Tết Tân Mão như tâm tình anh bộc bạch trong mấy vần thơ sáng tác không bao lâu trước đó :

                                 “ Hằng năm quy tụ chốn trường xưa,
                                    Phan Thiết luyến lưu tuổi học trò,
                                    Hội ngộ đầu xuân bao kỷ niệm…
                                    Cố về gặp lại thỏa lòng mong. ”

      Tâm tư của người bạn quá vãng cũng là mong muốn của mọi người chúng ta, những cựu học sinh trường Phan.Mỗi lần hội ngộ bao nhiêu kỷ niệm đẹp đẽ thuở học trò lại ùa về.Mới ngày nào còn bỡ ngỡ bước vào trường Phan,tưởng như hôm qua mà hoá ra đã 60 năm rồi.Ôi chao ,cái cụm từ ”60 năm cuộc đời ” đáng để chúng ta suy nghĩ lắm chứ ! Thời gian là thứ quý nhất trên đời.Tiền bạc, kể cả sức khỏe nếu mất đi vẫn có thể tìm lại hoặc có phương cách phục hồi.Còn thời gian mất đi chẳng thể nào tìm lại. Thời gian chúng ta ngồi học dưới mái trường Phan,bao nhiêu năm tháng là bấy nhiêu ân tình. Theo nhà văn Erich Maria Remarque trong tác phẩm  nổi tiếng ”Một thời để yêu và Một thời để chết ” thì đời người có 2 thời đáng nhớ mà ông nêu ra ngay từ cái tựa đề của truyện. Nhưng với tôi ,cái thời đáng quý ,đáng nhớ và đáng trân trọng nhất chính là  "Thời ngồi học dưới mái trường Phan ".
                                                           __________


                       HOA XƯƠNG RỒNG                              
                                                                                  Hoàng Công Bình

 Một ngày cuối năm 1969, nhận được tin một thằng bạn học thân bị thương, tôi tức tốc vào Sài Gòn thăm. Trên đường từ Phan Thiết vào, suốt 200 cây số, tôi miên man nghĩ về Chúc, thàng bạn cùng học chung lớp từ năm Đệ Thất, đến chưa hết năm Đệ Nhất thì nó chia tay, lên Đà Lạt vào Võ bị, vào đời lính. Trong suốt gần bảy năm học chung, hai chúng tôi, còn ở trọ chung với nhau, nhiều chỗ nữa, Hai năm đầu ở nhà ngay trước chợ Phường, nhà của anh Lượng, học trên chúng tôi hai lớp, năm chúng tôi vào đệ thất Anh đã học đệ ngũ rồi, Anh cứ kêu chúng tôi là những thằng nhóc, đi học về là ở trần mặc quần tà lỏn. Anh rất thương bọn tôi nhưng bọn tôi lại sợ, những khi gặp bài khó cũng không dám hỏi. Đến năm đệ ngũ, chúng tôi lại đổi chỗ, lần này chúng tôi cùng ở ngay trước trường Mẫu giáo 19-5 bây giờ, gian sau nhà có gác nhỏ, chúng tôi, bốn năm đứa cùng chen chúc nhau (thêm Bích Văn Mười Lợi và Tân), nóng nảy chất chội, biết sao được, đời học trò nghèo, được thế này, tốt chán. Bên hông có con hẻm, mỗi sáng, mỗi chiều, Chúc đều đến bên cửa sổ nhìn xuống mấy cô học trò nhỏ đi qua, còn tôi, lặng lẽ ngồi sau cửa sổ khép kín ở trước nhà dưới chờ tiếng guốc đi qua. Những dịp gần thi cử, đêm đến chúng tôi lại rũ nhau lang thang trên đường Nguyễn Hoàng, tụ tập bên các cột điện để có ánh sáng học bài, lúc đầu chỉ năm ba đứa sau ngày càng đông, có cả các bạn bên phố cũng tham gia, học mươi mười lăm phút lại tụ tập chuyện trò, có lúc tận đêm khuya mới rã đám về. Những lúc có tiền thì rủ nhau đến quán cô Út ở ga ăn cháo trắng hột vịt muối, tôm khô, củ kiệu, ngon như mèo ăn thịt mỡ. Hết năm đệ tứ, thi xong Trung Học Đệ Nhất Cấp (Bằng Phổ Thông Cơ Sở), hai chúng tôi lại chuyển đi trọ chỗ khác nữa, nhà ở giữa cánh đồng khoai (bây giờ là đường Võ Hữu), ở đây có cả Mai Thanh Long cùng trọ, Mai Thanh Long nhà ở Rạng cùng học với chúng tôi từ đệ Thất, nhưng lên Đệ Tam Long học Ban C, tôi và Chúc học Ban B, chúng tôi hay cãi nhau những chuyện không đâu, thường thì tôi và Chúc cùng phe, có lúc chúng tôi biết mình sai, nhưng vẫn cứ cãi, cố chọc cho Long tức cho vui. Chúng tôi (tôi và Chúc) ngoài việc học chung lớp, còn là”một đôi hoàn hão ở trọ chung nhiều nơi”, có lẽ vì chúng tôi đều là những thằng nhóc nhà quê, Chúc ở trong chợ Ma Lâm, còn tôi ở trong chợ Phú Long, nên cả hai đều là dân xóm chợ. Trong những ngày nghỉ, chúng tôi cũng nhiều lần đến chơi nhà nhau, tôi biết các em Chúc, Chúc cũng biết hết những người trong nhà tôi. Một điểm nữa khá tình cờ, mẹ Chúc mất sớm, dẫu sau này ba Chúc có lấy vợ khác, nhưng dù sao Chúc cũng thiếu tình Mẹ, cò tôi thì ba mất sớm nên thiếu hẳn tình Cha. Cả hai chúng tôi, mỗi người đều thiếu một nửa tình Phụ Mẫu.
 Đến bến xe Sài Gòn, đông đúc, chen lấn, ồn ào, tôi vất vả lắm mới ra khỏi và tìm ngay đến”nhà thương lính”. Qua khỏi cổng bệnh viện, một không gian xanh của cỏ cây, cùng sự yên tĩnh hóa thành một cõi riêng giữa lòng đô thị có cuộc sống quá vội vã rộn ràng, chưa kể xa hơn là bom đạn, là chiến tranh tàn khốc. Một khung cảnh hóa thành tranh đã làm dịu đi những lo âu, buồn bã mà tôi mang theo từ Phan Thiết vào. Trước mặt tôi không xa lắm, một anh thương binh ngồi trên xe lăn, được một thiếu nữ còn rất trẻ mặc bà ba thon thả của dân quê Nam Bộ đẩy sau. Bức tranh mà tôi đã cảm, giờ có thêm con người nên vô cùng sinh động. Buồn và đẹp lạ lùng, nó như hóa thành thơ, một bài thơ bi tráng của chiến tranh và tình yêu, một bức tranh đầy tính nhân văn, nằm trong bối cảnh thời bom đạn. Tôi cố tình đi chậm lại, ngắm nhìn và suy gẫm về sự trớ trêu của cuộc đời. Ngoài kia chiến tranh, bom đạn cày xới nát ruộng đồng cùng với những gì trên đó kể cả con người, để rồi ở đây, trong sự yên tĩnh này, một con người chăm sóc cho một con người. Buồn đau đến thế nào trong lòng họ, tôi không biết, họ nghĩ gì tôi không biết, chỉ thấy được cái hiện thực khách quan, và cảm được tính nhân văn vô cùng cao quý vượt ra khỏi giới hạn đời thường.
 Xe lăn đến ngã tư có đường rẽ vào khu vực điều trị. Ở góc nhìn rất rõ, tôi nhận ra Chúc, thằng bạn mà tôi muốn vào thăm. đang ngồi trên xe. Tôi mừng lắm, chạy vội tới, rồi hỏi thăm tíu tít về thương tật, về sức khỏe, về thuốc men, về cách chăm sóc về ăn uống, về biện pháp điều trị ….
Tôi chỉ chăm chăm nhìn Chúc mà chuyện trò, quên đi người con gái đứng bên xe lăn, đứng bên Chúc im lặng, xót xa và trìu mến. Tôi vừa tỏ lời xin lỗi thì Chúc giới thiệu “bà xã mình”. Chị Phan Thị Ngọc Hải, năm ấy mới 18 tuổi, đúng là dân miền Tây, chỉ thích mặc bà ba thôi, không phấn son chải chuốt  như các thiếu nữ Sài gòn lúc bấy giờ. Tôi cùng chị Hải đẩy xe Chúc vào phòng bệnh, phụ giúp đưa Chúc lên giường, lúc đó Chúc mới nói rõ với tôi về người vợ yêu quý của mình. Thực ra không cần Chúc nói, chỉ cần nhìn thoáng qua nét đăm chiêu của đôi mắt, nét hiền dịu mà lo âu trên khuôn mặt và cả những chăm sóc chu đáo chân tình của chị Hải cho Chúc tôi cũng cảm được,  thầm mừng cho Chúc có người vợ quý,  thầm cảm ơn chị Hải đã chăm sóc nuôi nấng tận tình chu đáo thằng bạn thân của mình.
 Khi phải chia tay, tôi rất buồn, bâng khuâng và vô cùng lo lắng, bởi vợ chồng Chúc còn quá trẻ, Chúc 27 tuổi, còn chị Hải chỉ mới 18 tuổi. Nếu không có phép màu, để Chúc hết bệnh thì phải có tình yêu thương và nghị lực phi thường, mới vượt qua những nỗi đau, nỗi nhọc nhằn, mới sống hạnh phúc.
Và quả thực hơn 45 năm qua họ đã sống hạnh phúc, một hạnh phúc quá tuyệt vời. Chúc nằm ở”Nhà thương lính”, đến ba năm mới về chỗ ở riêng tai khu Thương phế binh Thủ Đức.
Chuyện này sau tôi mới biết, bởi sau chia tay lần đầu, là những năm tháng mà mọi người đều có những bận rộn, không kịp đối mặt với công việc hằng ngày. Thực có lỗi đã không làm hết những việc lẽ ra phải chu đáo. Thôi thì cũng xin một lời tạ lỗi.
    Năm 1975, sau những ngày với công việc không tên bộn bề , khi cuộc sống dần ổn định, tôi lại nhớ chuyện ngày xưa. Nhớ Chúc, tôi nhớ ra, trước Chúc có người em, cô Mừng ở gần cầu Thị Nghè, tôi vào tìm và hỏi thăm về Chúc, cũng may tôi gặp được và biết địa chỉ của Chúc bây giờ.
         Tôi đến tìm thăm, Chúc vẫn ngồi trên xe lăn, có thêm một cháu bé đang bò trên giường và đang đi ngoài vung vãi, chị Hải đi chợ chưa về, tôi giúp Chúc làm vệ sinh cho cháu, chúc bảo cháu sáng nay đau bụng, tôi ra tiệm thuốc mua thuốc cho cháu. Chị Hải về lo cơm nước và chăm sóc cho cha con Chúc, Với những vất vã năng nề hằng ngày đặt trên đôi vai người con gái miền Tây, nhưng chị Hải vẫn vui tươi, vẫn như ngày tôi mới gặp lần đầu trong”nhà thương lính”, Chúc vẫn vậy, vẫn khuôn mặt trắng trẻo đẹp trai, đôi má phúng phính như trẻ con trỗ sữa, vẫn mập mạp dễ thương, chỉ có đôi chân bị teo cơ nhỏ lại. Tôi dò hỏi vế cuộc sống Chúc và cả chị Hải nói vẫn bình thường. Nhưng tôi biết bình thường sao được, khi cuộc sống của những người bình thường thậm chí khá giã cũng đã hết sức vất vã, huống chi là…
        Vợ chồng mua một bàn máy vắt sổ, chị Hải lên Sài Gòn nhận đồ về làm thêm, Chúc thì đơm khuy, kết nút, cái nguồn vui duy nhất là đã có được cháu bé. Tôi ra về vẫn không yên tâm lắm, nhưng chỉ biết cầu Chúa giúp đỡ cho vợ chồng Chúc, cho cháu bé.
 Rồi lại trải qua một thời gian dài bát nháo chuyện “ người đi, người ở, người về”, tôi không liên lạc gì với Chúc, thực lòng tôi cũng tưởng Chúc đã qua Mỹ rồi, bởi như Chúc mà không đi được mới là lạ. Ngày tháng trôi đi với những vui buồn của cuộc sống. Gần mười năm sau, một buổi trưa ở trường về, cả nhà đều vui, đưa cho tôi cái nón két lưới đen, mấy cây viết bi cùng một số vật dụng khác, rồi bảo của Chúc gởi cho, nhờ người cháu mang đến, và cho biết Chúc vẫn còn ở chỗ cũ, Thủ Đức.
Mấy ngày sau tôi vào thăm. Chi lạ rứa, hắn vẫn như ngày nào ! Vẫn oai phong lẫm liệt ngồi trên xe lăn, đôi má phúng phính như em bé xổ sữa, da dẻ hồng hào. Tôi lại thầm cảm ơn chị Hải, nuôi chồng như có phép màu, đời thường không có nỗi. Từ đó ba bốn lần nữa vào thăm Chúc, có khi tôi đưa các cháu cùng vào, cùng chụp chung hình với nhau. Bây giờ tuổi đã lớn rồi, đã cùng ở vào thế hệ”xưa nay hiếm”. ít đi lại nữa, nhưng chúng tôi vẫn thường xuyên qua điện thoại nói chuyện với nhau.
 Với tôi và cả với đời, gia đình Chúc (Chúc, chị Hải và cháu Gia Bảo), là một gia đình hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt vời. Một hạnh phúc đẹp mà tôi ví như Hoa Xương Rồng.  Cây Xương Rồng thường mọc trên sỏi cát khô cằn, trong môi trường khắc nghiệt, thân đầy gai,  thế mà hoa xương rồng lại vô cùng đẹp, nét  đẹp dịu dàng mềm mại.                                                                            
                                                                              Phan Thiết Tháng ba 2015
                                                           _________


                      VÀI Ý TƯỞNG TẢN MẠN
                                                                               
                                                                                         Phạm  Gia Cẩn    

Mấy hôm nay, Hoàng Công Bình  cứ điện thoại giục gửi bài cho Đặc San. Nói thật, giữa bạn bè, tếu táo vài ba câu chuyện la chuyện nhỏ, nhưng viết bài, mà lại viết để đăng đặc san kỷ niệm nữa thì thành chuyện “lớn lao” với tôi rồi. Nhưng chẳng lẽ “60 năm mới có một lần” lai chẳng có gì góp mặt ? Thôi thì liều vậy.
Thơ thì “né” là cái chắc, vì “không có cửa” ! Văn, cũng vậy. Thế là đành tìm “mục gì” ít người nghĩ đến, may ra... Hình ảnh.
Đúng rồi. Đặc san mà toàn bài viết, dù có hay cách mấy cũng “khô”, nếu thỉnh thoảng có vài phụ bản hình ảnh, chắc sẽ “tươi mát” ngay thôi, mà “cái dụ” hình ảnh thì “trong vòng chục năm trở lại đây”, ngoại trừ Lê Thiệu Hùng, Lê Quang Chiêu chắc chẳng ai qua được mình (? !). Hai ông bạn này chắc gì đã gửi hình ảnh cho HCB? Thế là yên tâm : gửi hình ảnh cho đặc san thay vì viết bài.
Tưởng dễ hoá ra lại khó. Quá nhiều ảnh, biết chọn ảnh nào, không ảnh nào!  Đang lúc khó thì tự nhiên nó “ló” cái khôn, nảy ra một “diệu kế” : cứ gửi cho HCB, còn chọn ra sao, ảnh ai, nhiều hay ít... thì tủy ban biên tập.
Khi chậm rãi lựa chọn ảnh cũng có cái hay các bạn ạ. Này nhé, từ thời gian, địa điểm trôi qua, những gương mặt Thầy Cô, bạn hữu chợt đến (như một cuốn “phưn” ấy), bồi hồi, xúc động lắm vì kẻ mất người còn, người thì xa tít mù khơi (ở nước ngoài), kẻ tuy cùng ở trong nước nhưng cũng không dễ gặp nhau... Mới đó mà bây giờ...
Tâm lý của chúng ta (?) khi xem ảnh là muốn “tìm có mình” trong đó không, có thì xem lâu lâu, không thì “bỏ qua đi tám”... Qua những hình ảnh trong đặc san này (nếu HCB chọn cho in) chỉ mong các bạn hay xem, hãy nhìn thật kỹ để thấy “cả một khung trời kỷ niệm” (cải lương quá đi thôi !) thời gian qua, chí ít cũng vài chục năm... Dù trong ảnh " không có mặt “ta nhưng rõ ràng là “có ta” ở trong đó!
Thế nhé. Mong rằng có dịp, có cơ duyên hãy mạnh dạn, không ngần ngại sách balo lên đường gặp lại nhau.
Chúc các bạn và gia đình luôn Vui Khoẻ.

                                                                             Hẹn gặp nhau.
           
                                                                    Sài Gòn ngày hết hạn nộp bài
                                                                               
                                                         _____________

THƠ VU ĐOÀI - DƯƠNG TẤN QUÝ 





1/ Xuân sắp đến mai vàng sắp nở
 Anh cũng chờ thêm một tuổi mùa xuân
                                      28-12-2013

                 2/ Đường phố đông người thôi ta lên núi
                     Nghe chim rừng gỏ mỏ ban trưa
3/ Lời em nói
 Em vẫn muốn nắng chiều trôi rất chậm
 Để anh còn ngắm mãi bóng thời gian
                                                                        30-12-2013

                                                        4/ Nhớ Tây Sơn
                                                       Vua Tây Sơn 3 văm
                                                        Núi Hồng Lĩnh 99 ngọn
                                                        Nguyễn Du viết
                                                       “Ta dọc Kim Cang hơn ngàn lượt
                                                        Vẫn không sao thấu được nghĩa huyền”
                                                                                            17-01-2014
5/ Nhớ Thi hào Nguyễn Du
 Tây Sơn ngắn ngũi cung đàn
 Nguyễn Du cũng một phím đàn phù du
 Non Hồng lữ thứ chiều thu
 Chín mươi chín ngọn lời ru nỗi niềm
 Ngỏ thiền chợt bước êm đềm
 Kim Cang ngàn lượt cho mềm lối ra
                                   17-01-2014

                                                       6/ Không tên
                                                          Rừng xa bến vắng cơ cầu
                                                          Sông kia gọi bến giang đầu vấn vương
                                                                                       15-01-2014
7/ Không tên
 Bà Huyện qua đèo Ngang
Ghé thuyền lên Thiên Mụ
 Thấy dấu xưa xe ngựa
 Ông Phật vẫn ngồi yên
 Tôi thăm lăng tẩm Huế
 Không thấy ông vua nào
                    12-01-2014      

8/ Không tên
Nỗi niềm thương nhớ ấy
Chút men nào cay cay


     9/ Sông vẫn đẹp núi vẫn xinh
        Vẫn xưa dáng ấy, vẫn tình mới nguyên.
        (hcb : Đêm nghe sóng biển rì rào
         Nhớ thương khoảnh khắc ta vào đời nhau
         Ngọt ngào mấy giọt mưa Ngâu
         Rơi vào trần thế nỗi đau tháng ngày)
                                                                        10-01-2014

                                               10/ Một tách cà phê, một tách trà
                                                     Sáng nào xuân cũng đến với ta
                                                    Chuyện trò nhâm nhi vui như Tết
                                                    Xuân đến xuân đi ta với ta
                                                                                      21-01-2014
11/Tuổi ấu thơ bốn bề bận rộn
    Bây giờ nắng xế cũng phôi pha
    Xuân vẫn đến bên bờ khổ đế
    Đêm vẫn dài một chuyến lang thang
                                      31-12-2013

                                             12/ Mừng họp mặt
                                                  Họp mặt nhau tóc nghiêng màu bạc trắng
                                                  Chút sum vầy xanh mãi chiều Xuân
                                                                                          04-02-2014
13/ Mừng Xuân
 Mừng Xuân mới mai vàng năm cánh
 Đón giao thừa chuông trống vạn niềm vui
                                        25-01-2014

                                            14/ Tối qua!
                                              Cây nguyệt quế tỏa hương thơm ngát
                                              Đâu phải hương nào của tối qua
                                                         (hcb:Tối qua là tối làm sao
                                                          Để hương nguyệt quế lạc vào giấc mơ)
15/ Quên
Sáng thức dậy, rứt tờ lịch.
Ly cà phê thêm muổng đường
Quên khuấy
                     (hcb: Đường về nhà đôi khi cũng lạc.
                         Cuộc đời mình cứ tưởng là ai )

                                         16/ Mai tứ thời
                                             Bốn mùa mai vẫn nở
                                             Ngại gì một giấc Xuân
                                                                       (hcb: Một đêm tròn giấc ngủ.
                                                                         Cuộc tình đẹp ngàn năm )
 17/Không tên
      Lạc đường bóng núi xa xa
      Lạ sông lạ núi hay là biển dâu
      (Hcb: Hãy tìm một đóa hồng tươi.
                Để đâu cũng có nụ cười với ta)

18 Vô tình
  Nửa đêm nước lớn vô tình
  Dã tràng xe cát giật mình tiếc thương    

                                         19/ Chiều thăm Nghi
                                                 Đi trong bệnh viện
                                                 Chiều dịu mát
                                                 Tôi lùi vài bước
                                                 Nhìn các bạn thanh niên có tuổi
                                                 Vui vẻ chuyện trò
                                                 Cảm ơn trái đất
                                                 Vẫn còn  xoay
   20/ Mưa                                              
    Viết được gì về một cơn mưa                    
   Cơn mưa khuya rất to và rất lâu                
   Gió cũng nhiều u uất cả đêm
   Thôi hãy chờ trời …trời tạnh

21/  Lời tự tình của hoa
      Hoa mai xinh đẹp khoe năm cánh vàng
       Bao nhiêu năm nữa mai vẫn là mai

                                                  ______________


    THƠ  NGUYÊN ĐẠO _   TỪ NGỌC NAM
     
                           



                                Anh Từ Ngọc Nam
      (Nam mất ngày mồng sáu tháng tám âm lịch năm 2011 )


                             1/ Chúc Xuân

   
                     Xuân về kính chúc bạn gần xa
               Hanh Phúc –An Khang khắp mọi nhà
               Tết đến muôn nơi vang khúc hát
               Năm sang vạn nẻo rợp cờ hoa
               Canh tân phồn thịnh dân giàu mạnh
               Hội nhập mở mang nước thái hòa
               Khai bút đón Xuân mừng Kỷ Sửu
              “Trâu Vàng”Tổ Quốc khải hoàn ca
                                                        Xuân Kỷ Sửu 2009

                                                                               2/ Chùa đây

                                                                   Suối đó-Chùa đây mãi kiếm tìm
                                                                   Rừng cây giăng lối giữa đồi sim
                                                                 “Thanh trang lan nhã”bên dòng suối
                                                                   Phật tự thiền viên chốn lững triền
                                                                   Bia đá thơ đề ươm nụ biếc
                                                                   Ngàn hoa trang điểm dệt vườn tiên
                                                                   Âm vang tiếng kệ lưng chừng núi
                                                                   Hương tỏa Chùa Đây ngát bóng đêm
 3/ Đôi dòng tạm biệt

 Tôi viết đôi dòng tạm biệt
 Gói ghém bao tình mến thương
 Giã từ thầy cô yêu dấu
 Lui về cuộc sống đời thường

        Tôi viết đôi dòng tạm biệt
        Nghẹn ngào xúc động đầy vơi!
       Chia tay thầy cô lưu luyến
        Nhìn nhau nói chẳng nên lời

                     Tôi viết đôi dòng tạm biệt
                     Thấy lòng lạnh buốt tim gan
                     Nghĩ ngày xa trường cách bạn
                     Rưng rưng lệ nhỏ đôi hàng

                      Tôi viết đôi dòng tạm biệt
                      Riêng gởi cho người tôi thương
                      Để em lưu vào kỷ niệm      
                      Rồi xa cách trở đôi đường

4/Vương vấn

 Quan trường xếp bút nghỉ ngơi        
 Sao còn vương vấn gọi mời thơ ca    
Duyên tình nồng thắm thiết tha
Không dưng đâu dễ đã là tri âm

                                              5/ Tuổi về chiều

Mãi đi hiến tặng tuổi hoa niên
Quản gánh ươm men rạng khắp miền
Thân nến đã tàn, đầu điểm bạc
Thôi về vui thú chốn điền viên

Lui về an phận lòng thư thái
Xa  lánh bon chen lắm lụy phiền
Lạc tịnh vui cùng hoa trăng gió
Thảnh thơi thi tửu với bạn hiền

Thế sự thăng trầm không vương vấn
An nhiên tự tại giữ lòng son
Chinh yên vó ngựa bao năm tháng
Kỷ niệm hoa niên mãi vẫn còn

Gác bút phong trần tuổi sáu mươi
Sắt  son còn thắm ngát hương đời
Đôi vần thơ vịnh lòng thanh thản
Bóng cả về chiều mãi sáng tươi

                                                  ______________

 THƠ KIM LIÊN
                 
                              Thiếu vắng

                          Thế gian vắng cả hay sao ấy
                          Khi mắt nhìn quanh thiếu một người
                          Lòng ta bỗng chốc thành hoang mạc
                          Nước mước mắt còn khô huống nữa cười

                                                            Nguyễn Thị Kim Liên
                            Hạc đã bay đi

                      Lao chi nhanh thế vào xa thẳm
                      Ngăn lại kịp đâu hút bóng rồi
                      Muốn theo cho có đôi cùng hạc
                      Ngặt cất mình sao nổi hỡi trời!
                       
                                               Nguyễn Thị Kim Liên
                       
  THƠ  CÔNG BÌNH

                                 Với trăng

                   Ta cố tình chôn trăng xuống cát
                 Nhưng không sao lấp hết ánh vàng
                 Đành ngậm ngùi thả cho trăng sáng
                 Rồi chơi vơi trong dải lụa vàng

                                                          Hoàng Công Bình                

                              Cuộc  sống

                                Sáng mùa thu
                                Sương mai ngủ trên cỏ
                                Người ra đồng
                                Nhè nhẹ bước bâng khuâng
                                Chim gọi đàn
                                Đưa tiếng hót lên cao
                                Mây lang thang
                                Dừng chân lưng chừng núi
                                Bạn bè ơi
                                Ta lại có một ngày !

                                                                      Phan Thiết đầu Thu 2014
                                                                               Hoàng Công Bình
                         
                                                         ____________
   

TRƯỜNG  PHAN BỘI CHÂU VỚI TÔI

                                                                                        Huỳnh Ngọc Phẩm

 Đã từ lâu, Phan Thiết là đất học. Học sinh Phan Thiết, nhất là ở cái nôi Phan Bội Châu, nức tiếng học giỏi. Đã nhiều năm, trước 1975, tỷ lệ đậu Tú tài, đạt nhất nhì các tỉnh Nam Trung bộ. Học sinh Phan Bội Châu, khi rời mái trường, vào đời, dù bất cứ ở đâu, dù sống trong hoàn cảnh nào, hầu hết, lúc nào cũng nhớ về trường, về thầy cô, về bạn bè và luôn sống tử tế trong xã hội. Sống có trách nhiệm với bản thân với gia đình và cộng đồng.
Tôi có hơn 40 năm làm nghề dạy học, đã qua rất nhiều trường và ngôi trường, mà tôi thương yêu nhất, gắn bó nhất là trường Phan Bội Châu. Điều này không có nghĩa là  tôi đã có một thời gian dài học tập và giảng dạy ở đây: 6 năm làm học sinh và 6 năm làm thầy giáo. Tôi yêu mái trường này vì tôi đã có ở đây những năm tháng đẹp đẻ., vì ở đây tôi đã nhận được nhiều tình cảm tốt đẹp, sự giúp đở tận tụy và chân thành từ thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và học sinh , kể cả phụ huynh. Những điều quý báu đó đã đi vào lòng tôi, gắn bó như một phần cơ thể của mình.
Dâu  bể cuộc đời,nhiều lúc cũng cho tôi sự đãi bôi,hờ hững, dối trá, đôi khi cả phỉ báng. Một thời gian dài, có lúc, gặp nhau giữa phố, không nói, không nụ cười. Chút tình bạn bè, thầy trò, đồng nghiệp xưa cũ cũng vội vã bay đi theo nhân tình thế thái. Cũng có thời điểm, đứng bên này đường Nguyễn Hoàng ngậm ngùi nhìn về phía cổng trường thân yêu, chỉ cách một con đường mà thấy như nghìn trùng xa cách! Song tôi chắc chắn rằng, sâu thẳm trong lòng của mỗi chúng ta luôn sống động nỗi niềm thương yêu về mái trường. Những khoảnh khắc ngậm ngùi nhất chính là những khoảnh khắc ta yêu mến trường nhất!
Càng lớn tuổi. nỗi nhớ càng thường trực trong ta. Nhớ khóm trúc già vẫn xanh màu lá, nhớ bờ giếng   rêu phong,  từng gốc sầu chiều,bãi cỏ sân trường, mái ngói lớp học, thầy cô, bè bạn. Những lúc ấy, tôi cảm thấy lao xao trong lòng, biết bao cảm xúc: luyến tiếc một thời cắp sách, bùi ngùi, tiếc nuối, những kỷ niệm buồn vui, những tháng ngày đã qua- những ngày xưa thân ái!.
Trong những năm gần đây và hiện nay, tôi may mắn được trở lại trường, với tư cách “một giáo viên thỉnh giảng môn toán” cho các lớp ôn thi vào 10. Tôi xúc động được ngồi trên những chỗ ngồi mà gần 60 năm trước tôi đã ngồi, xúc động được đứng trên bục giảng mà hơn 40 năm trước tôi đã đứng.
Ở đó qua khung cửa lớp học, trên bãi cỏ sân trường và dưới bầu trời xanh, tôi thấy lung linh hình bóng thầy cô tôi, bạn bè, đồng nghiệp và học trò tôi,, những năm tháng thơ ấu đến trường, những ngày đêm miệt mài đèn sách. kể cả những tình cảm non nớt, vụng dại của một thời mới lớn của tôi. Những lúc ấy tôi thực sự hạnh phúc, cũng như vô cùng hạnh phúc, được họp mặt cùng anh chị em liên lớp vào chiều Mồng Bốn Tết hằng năm: hạnh phúc để thấy rằng ở đời cái gì rồi cũng mất đi, qua đi ,chỉ có tình nghĩa sống với nhau, trong đó có tình bạn bè và nghĩa thầy trò là còn mãi mãi. Và. Tôi cũng  mong hạnh phúc đó luôn được phủ đầy, thường trực trong từng trái tim , cuộc đời của mỗi chúng ta, những anh chị em khóa V trường Trung Học Phan Bội Châu Phan Thiết.

                                                          _______________

     7 NĂM DƯỚI MÁI TRƯỜNG PHAN  - MỘT THỜI ĐỂ NHỚ

                                                                             Nguyễn Đình Thăng

         Đầu hè 2015, một người bạn cũ lâu ngày gặp lại tâm sự với tôi: “Thời gian trôi mau thật,mới ngày nào đây hai đứa còn ngồi học chung với nhau dưới mái trường Phan mà nay ai cũng “thất thập cổ lai hy ” rồi ! Nghe nói Tết Bính Thân sắp tới, bạn bè Phan Thiết sẽ tổ chức họp mặt ghi dấu 60 năm ngày chúng mình vào học trường Phan, bạn có về dự không ?” Tôi ậm ừ bảo để rồi sẽ tính, còn lâu mà. Về đến nhà, lời người bạn cứ đeo trong đầu tôi suốt cả ngày.
      Đúng là thời gian qua đi nhanh quá. Thấm thoắt đã 60 năm trôi qua từ ngày tôi bước chân vào học lớp đệ thất trường Phan Bội Châu. Những kỷ niệm của cậu học trò 13 tuổi mới vượt vũ môn tuyển sinh đệ thất năm học 1955-1956 vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Tôi quên sao được niềm hạnh phúc khi hay tin mình có tên trong danh sách thí sinh trúng tuyển. Năm đó tôi thấy mình “oai” lắm bởi trong xóm có ba học trò đi thi thì duy chỉ mình tôi trúng tuyển. Thời bấy giờ được học ở trường Phan Bội Châu, trường trung học duy nhất của tỉnh, là mơ ước của tất cả học sinh năm cuối bậc tiểu học bởi chỉ có những học sinh khá hoặc giỏi  mới vượt qua được kỳ thi tuyển lớp đệ thất tổ chức rất nghiêm ngặt.
       Khoá 5 chúng tôi may mắn được vào học trường Phan khi nhà trường vừa khánh thành cơ sở mới toạ lạc tại đường Nguyễn Hoàng. Chúng tôi thêm may mắn nữa khi từ năm 1960 trường mở thêm các lớp đệ nhị cấp. Điều này có nghĩa là học sinh sẽ lên thẳng các lớp đệ tam, đệ nhị, đệ nhất mà không phải chuyển ra Nha Trang học như những năm trước. Thế nên tôi đã được học liền mạch 7 năm trong một ngôi trường. Trong 7 năm đó biết bao kỷ niệm vui buồn của thời “áo trắng quần xanh đóng thùng” đã in sâu trong tâm trí. Theo trình tự từng niên khoá, danh sách thầy cô dạy tôi càng lúc càng dài. Con số đến lúc ra trường phải lên tới vài chục và ngày nay tôi không nhớ hết. Tôi nhớ nhiều các thầy cô dạy những lớp đầu cấp như thầy Ru, thầy Chương, thầy Mão, thầy Chung, thầy Mậu, thầy Thế Viên, thầy Giên, cô Yến… Lên đệ nhị cấp, tôi biết thêm các thầy Huân, thầy Hường, thầy Tâm, thầy Tường, thầy Canh, thầy Hiệp, thầy Hanh, cô Hoa… Dù ở cấp lớp nào,năm học nào, các thầy cô đều dạy dỗ rất chu đáo nhiệt tình, giúp tôi mở rộng kiến thức, trui rèn đạo đức tại nên những vốn liếng quý báu làm hành trang bước vào đời mai sau. Công ơn của những ân sư đó thật to lớn mà thế hệ học sinh chúng tôi không thể nào nhãng quên được .
        Sáu chục năm trôi qua, thời gian khá dài với tuổi tác đời người, nhưng những kỷ niệm thuở học trò dưới mái trường Phan không bao giờ phai lạt trong tôi. Tôi nhớ lắm màu đỏ đậm mái ngói, màu xanh dương bảng trường, màu áo trắng tinh khiết học trò, màu  phượng đỏ báo hè về… Thương biết mấy những tà áo trắng sân trường. Yêu xiết bao tiếng cười hồn nhiên không vướng bụi đời của bạn bè... Xa trường rồi, những hình ảnh đó trở thành các kỷ niệm vô giá. Chúng không bao giờ bị mất đi, chỉ ẩn chìm  đâu đó trong ký ức, nơi đáy sâu tâm hồn. Chỉ đến một hôm nào đó, bất chợt một cái chạm khẽ từ đời thường như cánh hoa phượng đỏ rơi trên hè phố, tiếng ve kêu réo gọi mùa hè,tiếng trống của ngày khai trường…cũng đủ làm bừng dậy trong tôi những kỷ niệm xưa về một thời vàng son đáng nhớ của tuổi học trò.
          Chỉ nghĩ đến hình ảnh được cùng bạn bè đông vui quây quần trong buổi họp mặt sắp tới mà lòng tôi xao xuyến nao nao. Tôi thầm cảm ơn nhóm bạn xưa tại Phan Thiết, những người bao năm rồi vẫn kiên trì vượt khó tổ chức các buổi họp mặt ngày mồng 4 Tết, biến nó thành ngày truyền thống của bạn bè khoá 5 để mọi người hàng năm dù ở trong nước hay ở bất kỳ quê hương xa xôi nào nhớ đến mà về. Buổi họp mặt tạo cơ hội cho những học trò cao tuổi tuy đã “con đàn cháu đống” nhưng vẫn tíu tít “mày tao” giành nhau kể lại các chuyện tinh nghịch thời “nhất quỷ nhì ma" của mình. Chỉ mới phác ra trong đầu hình ảnh ngày hội mồng 4 Tết năm Bính Thân thôi mà biết bao kỷ niệm thời áo trắng cứ chập chờn nối tiếp ẩn hiện ra trong tâm trí. Tôi thấy lòng mình ấm áp, nhẹ tênh như vừa trút mọi nỗi ưu tư đeo trong tôi từ sáng đến giờ. Phải về họp mặt với bạn bè Tết 2016 thôi! Mong sao sẽ gặp lại thật nhiều những bạn học xưa bởi mỗi năm tuổi chất chồng, ai cũng già yếu thêm, biết có còn gặp lại như lời nhắn nhủ ân tình của bạn Phạm Gia Cẩn trong một lần họp mặt trước đây :

                                    Mỗi năm Tết có một lần
                                    Gặp nhau bạn cũ dần dần thưa đi
                                    Dẫu rằng gặp mặt biệt ly
                                    Lẽ thường tạo hoá cười khì thế thôi
                                    Nhưng sao ta vẫn cảm hoài !

                                                ______________
     
               Thơ
                                                                            
                                       CHUYỆN SEN


Rẽ bùn ngoi biếc xôn xao gió                       Khói nước mỏng tang hoa động cánh
Lửa hạ oi nồng giục thắm sen                      Thanh tao hòa quyện với trong ngần
Lá trải làm khăn vui đón ngọc                     Có một vì sao dường chẳng ngủ
Sương lưng chùng lạ mấy phen!                  Vén mây ghé mắt biết bao lần !
                                 

                                  Hồ lặng như tờ sen cũng lặng
                                  Hư thực sao lồng bối rối hương
                                  Dấu thơm trốn sáng vào đâu được
                                  May thức chùa bên thỉnh sớm chuông

                                                                                Nguyễn Thị Kim Liên




                                                        _____________

           THƠ
                            Cuộc sống ngọt ngào

Ở quê tôi sáng mùa hè
Dư thừa tiếng chim hót
Trời trong xanh
Chờ đợi gió Nam về
Gốc tre già còng lưng  ru măng ngủ
Sim móc mừng đem màu tím khoe đời
Ở quê tôi những đêm mùa thu trăng sáng
Tiếng hát trẻ thơ quá đỗi ngọt ngào
Trên đồng lúa ngoài bãi dâu
Những con đường làng phủ đầy cát trắng
Lũ chúng tôi bỗng hóa thiên thần
Ở quê tôi người già tựa con trẻ
Lụm khụm gặp nhau móm mém chuyện trò
Hồn nhiên như thời trai trẻ
Tóc bạc rồi tình vẫn còn xanh
“  Hôm qua tát nước đầu đình
Ta quên hò hẹn để tình còn suông”
Ở quê tôi…
Quê tôi cuộc sống ngọt ngào

                                        Hoangcongbinh





                                   HOA HỌC TRÒ

                          Trời đất dành riêng tuổi học trò
                                 Một loài hoa đỏ rất nên thơ
                                        Mỗi năm hoa nở mùa thi đến
                                               Chạnh nhớ thầy xưa nhớ bạn bè
                     
                                                                              Nguyenuthang    


                                                    ________________


                 LẦN ĐẦU THĂM LẠI TRƯỜNG XƯA

                                                                                 Nguyễn Đình Thăng

       Tôi đã học trường Phan Bội Châu  suốt 7 năm trung học, từ niên khóa 1956-1957 đến niên khóa 1962-1963. Với đời người, 7 năm là một khoảng thời gian không dài nhưng đối với tôi đó là quãng đời đong đầy kỉ niệm vui buồn thuở học trò, là chiếc nôi êm ái giúp tôi khôn lớn trưởng thành. Tốt nghiệp ra trường, theo cha mẹ thuyên chuyển đi làm xa, rồi mải mê với cuộc sống bộn bề, tôi ít có dịp về Phan Thiết thăm lại trường xưa. Thế nên khi hay tin đến ngày khai giảng  năm học mới sắp tới đây trường sẽ kết hợp tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường Phan, lòng tôi nao nức mong sớm đến ngày được gặp lại thầy cũ, bạn xưa.
        Tôi cùng những bạn cựu học sinh khóa 5 đi chung một chuyến xe khởi hành từ Sài Gòn thật sớm để có thể đến Phan Thiết đúng giờ. Xe đỗ cách trường vài chục mét. Con đường Nguyễn Hoàng ngày xưa hôm nay đã đổi khác, không chỉ với tên mới Lê Hồng Phong mà còn khác nhiều với nhà cửa xây cất hiện đại và người, xe qua lại tấp nập. Từ xa, tôi đã nhận ra ngôi trường mình học ngày nào, vừa thân quen, vừa lạ lẫm. Cổng trường cũ bây giờ xây lại đẹp đẽ, hoành tráng hơn. Cũng ngôi trường ngày nào thế mà khi bước qua cổng, tôi như lạc vào một không gian khác lạ. Trường Phan hôm nay dường như to, rộng, khang trang hơn. Phía trong sân trường, tôi thấy có ba dãy lầu đúc kiên cố cùng với nhiều công trình phụ trợ để phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Đập vào mắt tôi là pho tượng đồng cụ Phan Bội Châu đặt trên bệ cao ở giữa sân. Tôi lặng người đứng ngắm vì pho tượng rất đẹp. Từ đôi mắt cụ Phan toát ra vẻ cương nghị, trầm buồn mà rất thách thức. Một công trình điêu khắc nghệ thuật có hồn như thế càng làm tăng vẻ bề thế, trang nghiêm cho ngôi trường.
       Sáng hôm đó cũng là ngày khai giảng năm học mới nên học sinh tụ về rất đông đủ. Trên 5 ngàn học sinh sáng chiều nghiêm chỉnh đồng phục  đã tề tựu trong sân. Bộ phận tiếp tân nhiệt tình chào đón cựu học sinh các khoá đầu. Họ làm chúng tôi ấm lòng qua những cái xiết tay, những nụ cười tươi tắn. Chúng tôi ai cũng xúc động khi mỗi người được gắn lên ngực một cái huy hiệu đánh dấu kỷ niệm ngày thành lập trường. Sau nghi thức tiếp đón ở cổng, tôi cùng các bạn cựu học sinh khác hoà vào đám người dự lễ đông đảo ngồi trên các băng ghế học trò trải kín mặt bằng sân trường.
             Vừa ngồi chưa nóng chỗ, tôi nghe tiếng loa vang lên nhắc nhở giờ khai mạc sắp bắt đầu, yêu cầu mọi người nghiêm chỉnh đứng dậy chuẩn bị làm lễ chào cờ. Tôi đứng lên hướng mắt nhìn vào cây cột cờ giữa sân trường. Hai học sinh đang khẩn trương cột lá cờ vào dây. Hình ảnh quá thân quen này gợi lại trong ký ức tôi những kỷ niệm khó quên của thời học trò. Tất cả như đang tái hiện trước mắt tôi.
        Thời đó cứ mỗi thứ hai đầu tuần, học sinh nào được chọn để kéo cờ đều xem là rất vinh dự. Suốt bẩy năm học tại trường Phan, không biết có phải do vóc dáng không thích ứng chăng, tôi chỉ một lần duy nhất ở năm lớp mười được chọn phân công kéo cờ cùng với một bạn khác cùng lớp. Có thể vì mất bình tĩnh hay do cảm động, tôi kéo thế nào mà quốc ca hát xong lá cờ vẫn còn cách đỉnh cột gần một mét. Trước bao nhiêu cặp mắt trông vào, tôi luýnh quýnh kéo mạnh dây cho lá cờ vọt nhanh đến ngọn cột. Buổi chào cờ hôm ấy tiếp diễn bình thường, tuy không bị la rầy gì từ thầy tổng giám thị nhưng tôi nhớ đời cái khoảnh khắc vụng về của mình.
- Tất cả, nghiêm ! Chào cờ, chào !
Tiếng hô từ loa phóng thanh vang lên đưa tôi trở về thực tại. Yên lặng tuyệt đối ngự trị sân trường. Hàng nghìn cặp mắt đều hướng về cột cờ. Trước mắt tôi, lá cờ theo nhịp kéo của hai em học sinh từ từ tiến lên cao. Khi lá cờ bọc gió tung bay phấp phới trên nền trời xanh, những tiếng hát hùng hồn vang lên: “Đoàn quân Việt Nam đi …”
        Không phải tiếng hát của mấy chục em học sinh mà là tiếng hát vang lên từ toàn thể học sinh đang dự lễ. Tôi ngạc nhiên vì thời còn đi học, việc hát quốc ca lễ chào cờ đầu tuần được phân công cho cho một lớp và luân phiên theo khối. Do chỉ một lớp hát nên mấy chục học sinh phải cố hát thật to thì tiếng hát mới vang khắp sân trường. Lớp nào hát nhỏ sẽ bị khiển trách, thường là bị phạt đứng dưới sân trường một tiết. Tôi đánh giá việc cho toàn thể học sinh cùng hát quốc ca là sáng kiến hay bởi khi số đông hát thì quốc ca âm vang hùng hồn làm tăng không khí trang trọng cho buổi lễ chào cờ. Ngoài ra đó cũng là phương cách giáo dục tốt giúp học sinh bộc lộ tình cảm yêu Tổ quốc, giúp các em ghi nhớ công ơn những người đi trước đã ngã xuống để thế hệ hôm nay có được cuộc sống yên bình, ấm no.
         Quốc ca vừa dứt, tôi nghe liền theo tiếng hô:
- Phan Bội Châu hành khúc !
         Hàng ngàn tiếng hát lại vang lên cuồn cuộn lúc trầm, lúc bổng. Âm hưởng bài hát quá thân quen. Từng lời ca nhịp nhàng như xoáy vào tâm tư những cựu học sinh tham dự buổi lễ :
Học sinh Phan Bội Châu tiến lên đi !
Dù đường trường xa vai sánh vai không ngại gì …
Học sinh Phan Bội Châu chí cương kiên.......
        Lại thêm một ngạc nhiên đến với tôi bởi bài hát này được thầy Lê Hoàng Chung sáng tác ngay từ thời chúng tôi đang học. Nó được chọn làm bản nhạc truyền thống của trường và được hát nối tiếp sau quốc ca trong lễ chào cờ. Cũng từng dạy học nhiều nơi, tôi thấy rất ít trường có hát bài ca ngợi danh nhân mà trường vinh dự mang tên hát trong lễ chào cờ. Hôm nay bài “Phan Bội Châu hành khúc“ bao lâu lãng quên, bỗng chốc vang lên khỏe khoắn như dòng suối trong lành tưới mát tâm hồn tôi, người học trò nhiều năm xa trường. Từng lời bài hát như thấm vào lòng, len lách tận trong tim khiến tôi như được sống lại một thời vàng son của tuổi học trò..
      Sau nghi thức chào cờ, khỏi nói các bạn cũng rõ những sự việc nào tiếp nối sẽ diễn ra trong buổi lễ. Nhưng thật lòng mà nói, suốt một ngày có mặt tại Phan Thiết hôm đó, tuy tham dự hầu hết các tiết mục do ban giám hiệu nhà trường ưu ái dành cho cựu học sinh, ấn tượng nhất với tôi chính là buổi lễ chào cờ. Chưa bao giờ một buổi lễ chào cờ mang  lại cho tôi những cảm xúc sâu lắng đến thế. Nó làm sống lại trong tôi cả một khung trời áo trắng ngày xưa. Xa lắm rồi nhưng sao vẫn như gần gũi đâu đây. Có chút nhói lòng trào dâng trong sâu thẳm nỗi nhớ. Mắt bỗng cay cay khi ở đâu đó vang vọng về tiếng hát của Duy Khánh :

                   “Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ
                     Nhiều nét đổi thay tường mái rêu mờ
                    Bên hiên hằng giờ tìm những bạn xưa …”

                                                 _____________
 
 THƠ
                                                  NGUYỄN THỊ KIM LIÊN





      NHỚ  HOA  VÔNG   và   CHIM SÁO

     Đâu chỉ đỏ thôi, còn nghễu nghện
    Quyến chim, dụ trẻ nhất trên đời
    Trẻ cúi nhặt hoa reo tở mở
    Sáo hội trăm phương tấu ỏi trời!

                        Nghi có lõm rừng lòng phố thị
                        Tò mò lũ sáo kéo nhau về
                        Chao ôi sửng sốt màu vông lửa
                        Sà xuống vòm hoa  sáo chết mê !

                                                 Ta, bạn đâu rồi năm tháng ấy ?
                                                 Vườn vông đã cỗi, sáo bay xa
                                                 Có ai cũng nhớ như ta nhỉ ?
                                                  Bổi hổi trời xuân Phan Thiết xưa !

                                             LÊN MƯỜI

                                Trống hội biết ta từng trốn học
                                Nắng quê truy  xém tóc đuôi gà
                                Trộm trái vườn người cùng lũ bạn
                                Mặt, tay gai xước giống như là …

                                                 PHỐ CỔ

                                 Phố cổ một lần ta chợt đến
                                  Lơ ngơ tưởng gặp Hội –An nào
                                 Ngói sếp rêu phong thành lớp lớp
                                 Chạnh nhớ làng xưa nước mắt trào
                                 Đường hẹp chòng chành như có sóng
                                 Chưa hội sao đèn đã trước hiên?
                                 Để chuyến đò xuôi bên phố  Hội
                                 Mắt người kiêu hãnh chỉ trông lên !

                                                      LÀNG XƯA

                                        Hết giặc ta về buồn muốn khóc
                                        Làng xưa quê cũ chỉ còn tên
                                        Bao nhiêu hoài niệm đành chôn chặt
                                        Đến tận bây giờ biết chưa quên
                                        Làng bỏ về đâu tìm chẳng thấy
                                        Mang theo  thềm gạch, mái chùa cong
                                        Luôn dáng u trầm bao cổ thụ
                                        Và cả hồn ta có lạ không ?

                                                 ___________  
  

                 Thư Pháp cảm tác 
                                                    TỪ  BÀI  "NHỚ  HOA  VÔNG   và   CHIM SÁO  "

                                                                                       Phạm Gia Cẩn



                                  ________

              CHUYỆN QUA ĐƯỜNG

                                  Thân tặng các bạn tôi đang định cư ở nước ngoài
                                                                                         Hoàng Công Bình
     



     Trên chuyến xe ra Bắc, tôi tình cờ ngồi bên hai người khách lạ, một già độ sáu,  bảy chục, một trẻ chừng mười lăm, mười bảy. Nếu không nghe xưng hô, trò chuyện, chắc không ai biết đó là hai ông cháu. Ông tuy tươm tất, lịch sự, nhưng hiền từ, mộc mạc, đậm nét chân quê. Cháu một cô đầm lai sắc sảo, dẩu không kiểu cách diêm dúa, nhưng lại đúng mốt của một thiếu nữ thị thành tây phương. Họ ngồi bên nhau tưởng như tương phản gay gắt, song lại đồng điệu vô cùng.
 Biết tôi tò mò, ông thì thầm bảo:
 Ông cháu tôi về thăm quê hương, đưa cháu đi một vòng đất nước.
 Từ cái bắt đầu cởi mở ấy, chúng tôi trò chuyện với nhau như những người thân. Khi gần đến đèo Cả, cô cháu nhìn lên đỉnh núi chỉ và hỏi tôi:
 -Hòn Vọng Phu tê (kia), phải khôn (không) O (cô)
 Nghe một cô đầm, hỏi bằng tiếng Việt, lại đặc sệt giọng Huế, tôi bất giác rơm rớm nước mắt và hăng hái kể cháu nghe:
-        Vâng đó người ta cũng gọi là Hòn Vọng Phu, theo chuyện người đàn bà bồng con chờ chồng đến hóa đá. Lịch sử nước ta có rất nhiều hoàng cảnh vợ bồng con chờ chồng như vậy, nên ở đâu, có phiến đá nhô cao thon thả dáng phụ nữ thì cũng đều được gọi là Hòn Vọng Phu.
-        Cô cháu : Ở mô (đâu), nữa O ?
 Tôi cố nhớ : Ở Đắk Lắk ; Bình Định ; Quảng Nam ; Nghệ An ; Thanh Hóa Lạng Sơn…. đều có Hòn Vọng Phu cả
 Cô cháu hỏi :Thế bài trường ca Hòn Vọng Phu của nhạc sỹ Lê Thương nói về Hòn Vọng Phu mô rứa (đâu vậy) O ?
 Tôi lại phải cố nhớ : Nếu O không nhầm, thì đó là Hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn.
 Cô cháu phấn khích: Phải rồi”Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”. Người phụ nữ bồng con đứng chờ chồng chính là nàng Tô Thị đó O ạ.
 Tôi hỏi : Cháu có thuộc bài trường ca đó không?
-        Dạ dài quá O ơi, Ôn có dạy và cháu cũng có mở nghe trên mạng, nhưng cháu không nhớ hết nỗi, rồi cháu hát nho nhỏ vài câu:” Lệnh Vua hành quân trống kêu dồn. Quan với quân lên đường… Người không rời khỏi kiếp gian nan, người biến thành tượng đá ôm con …”. Tôi cúi mặt ngậm ngùi, xúc động.
 Ông phân trần:
-Dạy cho các cháu sinh ra và lớn lên ở bên kia, biết tiếng Việt mình và nói chuẩn giọng quê, tuy không khó khăn lắm nhưng phải hết sức kiên trì
 Tôi chớp mắt đồng cảm và tự thấy chạnh lòng. Trong chúng ta khi nói chuyện với nhau, đôi lúc dùng một vài tiếng tây, tiếng tàu, cho có vẻ uyên bác, chứ đâu có nắn nót từng câu, từng chữ tiếng mình như một số người sống xa quê hương, như hai ông cháu đang ngồi cạnh tôi đây, tiếng Việt, với họ không chỉ là một phương tiện giao tiếp mà còn là một vốn quý văn hóa của dân tộc, một tâm hồn trong mỗi cá nhân, phải giữ gìn. Tệ hơn một số bà con ta sinh ra và lớn lên ở quê nhà, học hành ngoại ngữ chưa tới nơi, tới chốn, khi phải đinh cư ở nước ngoài, bập bẹ được một vài câu, lại đem vốn tiếng bồi đó buộc con cháu phải sử dụng mọi giao tiếp trong gia đình. Khi có dịp về quê cũng xí xô xí xao với nhau như tây thực, như chưa hề biết tiếng Việt. Thực đáng buồn !
 Tôi hỏi tên cháu, cho tiện chuyện trò.
 Cháu thưa:
-        Gái, Nguyễn Thị Gái.
Tôi hơi ngạc nhiên, Ông giải thích:
 -Lúc đầu bọn trẻ bên đó, cũng khó gọi đúng tên cháu, nhưng kệ gọi Gai, Gai cũng được. Tên đâu chỉ để gọi nhau, còn gắn vào đó bao nhiêu điều nữa chứ, với tôi mỗi lần gọi cháu là nhớ về các cháu nhỏ quê mình.
 Tôi gật đầu tâm đắc. Vâng còn biết bao nhiêu điều mà cha mẹ muốn gởi gắm vào cái tên con mình. Ở xa quê mà mỗi lần gọi con: Gái ơi. Sao nghe quá đỗi gần gũi thân thương, quá đỗi Việt Nam với những hiền dịu nết na với công dung ngôn hạnh của phụ nữ mình. Tôi lại buồn nghĩ về một số trong chúng ta gọi con là Jan, là Jach, là Tony, là Bob, nghe rỗng tếch, chẳng ra sao cả.
 Xe tới Quy Nhơn, Cháu vui thấy rõ, rồi nói:
-        O ơi Mộ Hàn Mặc Tử ở chổ ni phải không O ?
-        Vâng, cháu có biết và thích thơ của Hàn Mặc Tử không ?
-        Thích quá đi chơ!
-        Cháu thích nhất bài mô?
-        Bài mô cũng hay hết O, nhưng cháu chỉ thuộc vài bài.
-        Cháu ngâm cho O nghe vài bài đó đi.
-        Khôn (không) O, Ôn (Ông) cháu nói thơ thì đọc, hơn là ngâm, vì ngâm thì trong đó có nhạc, đôi khi nghe hay không phải do thơ mà do nhạc.
-        Cũng được, cháu đọc vài câu trong các bài mà cháu thích nhất
-        Dạ, trong bài Mùa Xuân Chín, ”…Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, Bao cô thôn nữ hát trên đồi, Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi, … Chị ấy năm nay còn gánh thóc, Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Hay trong bài Đây thôn Vỹ Dạ, cháu thích cả bài luôn, mà O ơi”…Vườn ai mượt quá xanh như ngọc. Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”, sao nhà thơ lại tả mặt con gái lại là mặt chữ điền hở O?
       Tôi thực sự lúng túng, đành phải ỡm ờ :
       Mặt chữ điền thể hiện sự đầy đặn, phúc hậu của người phụ nữ, như Nguyễn Du tả Thúy Vân”Xem Vân trang trọng khác vời. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”. Nếu cho mặt Thúy Vân tròn như mặt trăng, lông mày lại to và dài thì cũng đâu có đẹp? Vả lại Mặt Chữ Điền về kết cấu ngôn ngữ thì đây là một cụm từ, về nghệ thuật ngôn từ dân gian, thì đây là một thành ngữ, nó đã được hình thành trước khi Hàn Mặc Tử sáng tác, bài thơ này. Cũng có người cho rằng Mặt chữ điền, đã chắc gì Hàn Mặc Tử muốn nói đến khuôn mặt của một thiếu nữ mà có thể là một cái gì đó, như bức bình phong trước nhà, hay mặt hồ cá…
 Tôi chắc cô cháu chưa bằng lòng, hỏi tiếp:” Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay”, ở Vỹ Dạ có bến sông trăng hớ O. Tôi cười và đùa với cháu bến sông nào mà chẳng có trăng, chắc cháu cũng không thực sự vừa lòng với câu trả lời qua loa của tôi.
      Xe qua Bình Định, cháu lại nói với tôi về Đại Đế Quang Trung, tôi bây giờ trở thành O học trò nhỏ ngoan ngoản, Cháu sa đà nói về tài thao lược đánh Tống ở phương Bắc, đánh Xiêm ở phương Nam và dẹp loạn trong nước giữ yên bờ cõi. Tôi xen vào người ta ví Quang Trung là Napoléon của Việt Nam. Cháu phản ứng ngay, cháu không đồng tình đâu. Tài thao lược của Nguyễn Huệ là để giữ nước, cuộc chiến đó có ý nghĩa tích cực còn Napoléon, đem quân xâm chiếm các nước khác, đó là điều xấu, không giống nhau được. tôi nhìn cháu mà khâm phục, với độ tuổi đó lại ở nước ngoài mà có những nhận định sâu sắc. Chưa hết, cháu còn thêm:
-        Nguyễn Huệ ngoài tài quân sự, còn là một lãnh đạo đất nước tài ba, như việc Ngài quy định chỉ dùng chữ nôm trong các văn bản hành chính cũng như học thuật thi cử. Xin bái phục cô cháu nhỏ của tôi, tôi thêm, nước ta cũng có Đời Hồ Quý Ly cũng quy định như thế. Cháu nhìn tôi và nói: O không biết Nguyễn Huệ trước ở quê cũng họ Hồ, có lẽ cũng dòng dõi của Hồ Quý Ly ?
-        Tôi khen : Cháu giỏi lắm.
-        Cháu bảo: Giỏi gì mô O, cháu nghe Ôn kể và cháu tìm đọc trên mạng, chuyện gì chẳng có, cốt ở tấm lòng thôi. Điều mà cháu tiếc nuối nhất là Chữ Nôm hiện đã mai một dần, đến lúc không ai còn biết đến nữa, thực ra ông cha ta xưa đã dày công xây dựng thành một loại chữ viết khá hoàn chỉnh, có thế Nguyễn Du mới sáng tác được truyện Kiều, cùng với bao nhiêu tác giả khác đã có những tác phẩm để đời như Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên, Nhị Độ Mai, Lưu Bình Dương Lễ, Tấm Cám, mãi đến sau này Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương v. v cũng sáng tác thơ lục bát hoặc song thất lục bát cũng bằng chữ Nôm. Ngày nay còn mấy ai đọc được chữ Nôm nguyên bản. Hậu quả quan trọng là một phần không ít lịch sử vả văn học của ta đã rơi vào khoảng trống mênh mông. Thực có lỗi với tổ tiên!
 Xe qua Tam Quan chạy giữa các hàng dừa, cháu nhìn ra rồi nói một mình:
-        Dừa xanh và đẹp hơn Ôn kể.
        Tôi thì thầm với cháu: Đẹp hơn răng (sao) cháu?
        Cháu giải thích : Tàu dừa xanh mước và cong cong mềm mại, nhún nhảy như đang nô đùa với nhau, thân dừa nâu sẫm thon thả bắm đất nuôi con, biểu tượng cho dáng đứng Bến Tre phải không O ? Tôi mỉn cười vui sướng cho sự tinh khôi và thầm tự hào vì có một người mới gặp đang ở nước ngoài lại có hồn Việt đến vậy.
 Xe qua Sa Quỳnh cháu lại hỏi tôi về một di chỉ khảo cổ nào đó. Tôi ẩm ờ.
     Có lẽ hơi mệt nên có lúc tôi thiêm thiếp ngủ, trong chập chờn, tôi nghe cháu nho nhỏ hát:
 Về đây nghe em, về đây nghe em
 Về đây mặc áo the, đi guốc mộc
 Kể chuyện tình bằng lời ca dao
 Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
 Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
 Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu…….
  Về đây nghe em, về đây nghe em
 Về đây đứng hát trên sông nước này
 Chở lòng người trở về quê hương
 Chở hồn người vào lòng suối mát
 Chở thật thà vào lòng dối trá
 Và nhạc hoa xin tạ chút ơn
 Hạnh phúc khi đã gặp nhau
          Tôi đã tỉnh ngủ từ lâu, nhưng cố ngồi yên nghe em hát  cho hết bài của Trần Quang Lộc, tôi vỗ tay nhè nhẹ, khen cháu hát quá hay, rồi hỏi:
-        Cháu có thích nhạc Trịnh không ?
-        Thích quá chứ O! Cháu đã tìm mua rất nhiều đĩa nhạc của Trịnh Công Sơn và cháu nghe thường xuyên, cháu muốn nghe Hồng Nhung hay Quang Dũng hát, cháu không thích lắm giọng Khánh Ly.
-        Vì sao ?
-        Khánh Ly và Trịnh Công Sơn cả hai cùng thời với nhau, nên tiếng hát của Khánh Ly quá gần gũi với tâm trạng xót xa của Trịnh lúc bấy giờ, nhất là những bài về chiến tranh , về thân phận con người. Nó không được thanh thoát bay bỗng như thế hệ Hồng Nhung, Quang Dũng bây giờ. Nhưng đó là ý riêng của cháu thôi nghe.
-        Cháu thích bài nào nhất của nhạc Trịnh?
-        Cháu thích nhất bài Như cánh vạc bay. Vì bài này hình như Trịnh viết cho cháu vậy! Vì bác hỏi”Nơi em về ngày vui không em. Nơi em về trời xanh không em. Ta nghe từng giọt lệ. Rớt xuống thành hồ nước long lanh”. Bác ấy chưa qua chỗ cháu ở mới hỏi như rứa chứ, đôi khi cháu cũng buồn thực nhưng khôn khót mô (không khóc đâu), làm gì có nước mắt rơi thành hồ nước long lanh. Nói quá O hí.
    Tôi lại thấy cháu ngây thơ và đáng yêu vô cùng.
    Và cứ thế, xe qua mỗi nơi, cháu có một điều để nói, một điều để hỏi, một điều để suy gẫm, về con người, về quê hương. Tôi thầm nghĩ cái vốn tri thức của cháu, phần lớn được dạy dỗ từ gia đình, mà chủ yếu là ba và ông nội cháu, mẹ cháu dân Mỹ gốc Hà Lan, nhà trường nơi cháu học và cộng đồng nơi cháu ở biết gì những chuyện”mô tê “mà cháu biết.
        Khi xe ghé lại ăn cơm, ông cháu mời tôi ngồi cùng bàn, tôi ái ngại, lo về những điều có thể làm cháu bỡ ngỡ. Nhưng không, cháu quá đỗi tự nhiên và thành thạo, trong ăn uống theo kiểu Việt. Nhìn cháu cầm đũa vẻ, gắp, và, thao tác nào cũng chuẩn, cũng chính xác cả. Nhìn tôi, Ông phân trần:
       Giữa một cộng đồng dao, nĩa, tập cho cháu dùng đũa, quả thực là khó khăn, nhưng ta phải cố. Cũng cách điệu một bàn tay để ăn, đôi đũa của ta là bàn tay chỉ hai ngón, cái nĩa của tây là bàn tay đủ bốn năm ngón. Chỉ hai ngón mà làm đủ các chức năng của bàn tay bốn năm ngón, nên về văn hóa, đôi đũa ở một tầm cao hơn nĩa. Con dâu Hà Lan của tôi cũng đồng tình quan điểm này và cô ấy cũng dùng đũa thành thạo lắm. Chưa hết cô ấy còn biết thắp nhang, đứng thành kính lạy trước bàn thờ tổ tiên mỗi ngày kỵ giỗ. Ông nói thêm: Đó là vốn quý cha ông ta để lại, ta phải biết giử gìn! Tôi cúi mặt mỉm cười, hãnh diện và nhận ra rằng trong cuộc sống đời thường, chúng ta đôi khi đã vô tình trước những vốn quý đáng trân trọng đó. Nếu quá hờ hững sẽ có tội với giống nòi.
         Tiếc là không đi hết chặng đường với hai ông cháu. Rồi đây chắc hai ông cháu sẽ thủ thỉ với nhau những điều của hôm qua, hôm nay và mai sau, trên vùng đất quê hương mà hai ông cháu đi qua. Khi chia tay, chúng tôi đều bịn rịn với nhau. Ánh mắt cháu nhìn tôi như muốn gởi gắm điều gì, còn tôi vui sướng nghĩ rằng người Việt mình dù sống xa quê hương, nhưng vẫn giữ được Tiếng nói Việt, Nếp sống Việt và Văn hóa Việt, không chỉ hôm nay mà còn mãi mãi ở các thế hệ mai sau.
     
                                                      ___________

   
                  THƠ  HÀNG BÔ  
                                                                        (Hồ Như Bang)

           1/ Con phố câm

           Đêm đêm về thành phố                        Gió lạnh cài công viên
           Mang cả khung trời sầu                       Từng chuỗi buồn triền miên
           Gập gềnh xe thổ mộ                             Sương rơi tìm mắt lạnh
           Vó buồn vươn canh thâu                      Dư âm trãi đôi miền

           Đường xa dài heo hút                            Trời ru con phố ngủ
           Cột đèn dài đứng trông                         Sao khuya đổ lệ vàng
           Hai hàng cây cao vút                            Niềm đau thương bỏ ngõ
            Con chó gầy chạy rong                        Đục rủa linh hồn hoang


                                 Gầy ọp con nắc nẻ
                                 Ngủ mơ bờ dậu trăng
                                 Say mê đứa con gái
                                 Tình yêu con phố câm


               2/ Di thể

       Xác thể đọa đày cơn bệnh                              Đôi mắt nửa khung trời lạnh
       Thở phèo khói thuốc không bay                     Đèn khuya xô lệch chân tường
       Qua những đêm dài không ngủ                      Có vừng trăng nằm hiu quạnh
       Nằm nghe thương nhớ sâu đầy                      Gục đầu vai nhớ vai thương
       Gió rét mưa viền cảm giác                             Những nét kỷ hà thơ ấu
       Đầy mình lên những nấm gai                        Bây giờ rục rã hoang vu
       Ý nghĩ vô cùng bi đát                                     Chân tướng thôi rồi mất hết
       Buông rơi kỷ niệm trên đài                            Cuộc đời âm bản mùa thu

               3/ Tôi Yêu người em nhỏ

          Tôi yêu người em nhỏ                          Tôi yêu người em nhỏ
           Tóc thề Xanh tầm tơ                             Đi trong nắng tình ca
           Cánh môi tràn ý sống                           Nhặt lá vàng rơi rụng
           Cặp má hồng trăng thơ                        Bên nắm mồ niên hoa
                                 
                     
          Tôi yêu người em nhỏ                             Người em nhỏ tôi yêu
          Có dáng đi thướt tha                               Lê bước trên đường chiều
          Theo áo lùa lá đổ                                    Tìm mảnh hồn  trôi dạt
          Trong nắng sớm ru hòa                           Đã chết vì thương yêu


                4/Lộ ngàn

        Hàng cây thấp xuống                    Lũng thung cúi mặt
        Con đường cao lên                        Suối gày ngửa tay
        Mặt trời tối lại                              Chiều đông ngắt
        Chiếc xe gập gềnh                        Chim rừng không bay
        Dăm ba gác thượng                      Âm u rừng núi
        Buông chiều buồn tênh                  Điệp trùng chân mây
        Cuộc đời thằng mọi                       Hoang niềm nhớ              
        Cuộc đời không tên                       Trơ bồn ngọn cây

                                      Hàng cây xuống thấp                          
                                     Con đường lên cao                                
                                     Tưởng mình trốn được    
                                     Dương trần Thương đau

                 5/ Di tích
       Nửa đời phiêu bạt trong mưa                    
       Biển tình tư lự buông neo
       Nhìn ra ngút phố nước bừa trắng hiên        
       Tình thân ở lại lao đèo bám rêu
       Dáng nghiêng cây trút ưu phiền                
       Lá lên niềm nhớ cài nghiêng đất trời        
       Thuốc tàn không ấm lên môi                      
       Mưa giăng bủa khói nghe đời trống trơn    
       Linh hồn ướt sũng cô đơn
       Tình yêu chạy trốn thiên thần ngóng theo
       Suốt đời bồng ẵm cô liêu
       Lưng bia đá tạc trăm chiều đớn đau!          

                6/ Thôi Em

        Nỗi buồn anh mọc trái                        Chừ lưng anh quằn xuống
        Thân thể đầy quả non                         Sách vở và bướm mơ
        Anh van em đừng hái                          Theo thời gian bốc cháy
        Những mùa xuân trong hồn                Còn lại vết tro mờ

                Ngày xưa hoa kết nụ                        Cúi đầu anh sợ khiếp
                Học trò đẹp giấc thơ                        Thân phận thằng con trai
                Anh đầy tay nỡ mới                          Đen như màu hắc ín
               Ươm tình hoa bướm mơ                    Da bong đầy óc gai

                                               Cuộc đời em biết chứ
                                               Thôi đừng nói thương yêu
                                                Áo cơm còn rách rưới
                                             Thôi đừng nói  thương yêu                                            

                                                 _____________

TƯ VẤN SỨC KHỎE
                                                                               BS Lê Thiệu Hùng

                                                                             

      A/ ĐI BỘ TÍCH CỰC VÀ HIỆU QUẢ

       
   Từ lâu đã có nhiều nghiên cứu cho thấy những lợi ích của đi bộ như:
 a/Tim mạch:
Khi đi bộ máu lưu thông đến các mạch máu ngoại vi, tăng tính đàn hồi các mạch máu, giảm nguy cao huyết áp và các tai biến do cao huyết áp
 b/ Tiêu hóa:
Nhu động ruột tăng khi đi bộ, tránh tao bón. Đi bộ còn giúp cho ngon miệng vào buổi ăn sáng.
 c/ Cơ xương khớp:
Đi bộ giúp tránh teo cơ, suy yếu cơ xương ở người lớn tuổi. Ngoài ra còn kích thích calci quá trình trao đổi chất ở xương khớp, giúp tránh loãng xương ở người lớn tuổi
 d/ Hô hấp :
Đi bộ buổi sáng, không khí trong lành, làm tăng sự trao đổi thông khí ở phổi, giúp tránh các bệnh về hô hấp.
 e/ Thần kinh:
Máu lưu thông nhanh, đem nhiều oxy đến tế bào não, làm thần kinh sảng khoái, trí óc minh mẫn, giảm nguy cơ bị bệnh suy giảm trí nhớ ở người lớn tuổi (Alzenmer).
 f/ Sinh lý :
Những nghiên cứu gần đây cho thấy đi bộ thường xuyên giúp giảm bớt rối-loạn- cương ở người lớn tuổi

 Đi bộ lúc nào và chỗ nào là tốt nhất :    

           Buổi sáng sớm, không khí trong lành, yên lĩnh là thời gian tốt nhất để đi bộ. Nhiều người không thể đi vào buổi sáng, thì cũng có thể đi vào buổi chiều. Tùy theo chỗ cư trú. Mỗi người có thể chọn cho mình chỗ đi bộ tốt nhất. Có thể đi trên những con đường lát gạch rộng rãi thoáng mát, đi trên những con đường quanh các chung cư, đi dọc trên vĩa hè những con đường còn ít xe cộ, trong những công viên nhiều cây xanh, trên bãi biển.

 Đi bộ thế nào là tích cực :
          Để thực hiện việc đi bộ tích cực thì trong khi đi bộ nên có sự kết hợp nhịp nhàng của tay, chân và hơi thở như sau:
 1/ Tay:
Khi đi cánh tay và cẳng tay làm thành một góc 90 độ và đánh song song hai bên thân hình. Trong khi di bộ bàn tay là phần ít hoạt động nhất, do đó mỗi bàn tay nên cầm một quả cầu nhỏ bằng inox, hay đá, để vừa đi vừa bóp quả cầu hay dùng các ngón tay xoay tròn quả cầu. Động tác này làm giảm đau khớp, cứng khớp các ngón tay ở người lớn tuổi
 2/ Chân:
Hai chân bước đều, bàn chân tiếp đất theo thứ tự: gót chân, lòng bàn chân, các ngón chân. Như vậy các ngón chân sẽ được co lại và ấn mạnh xuống mặt đường. Đi như vậy ban đầu sẽ bị mỏi đùi và mặt trước cẳng chân, nhưng sau đó sẽ quen và đi càng nhanh dần
 3/Hơi thở:
Hít vào bằng mũi và thở ra bằng miệng. Hít vào và thở ra được ngắt làm nhiều hơi. Thở ra luôn hơn hít vào từ 2 đến 3 lần. Ví dụ :hít vào 3 lần thì thở ra 5 lần. Thở ra nhiều hơn hít vào là để tống hết khí ứ đọng trong phổi. Hơi thở ngắt làm nhiều lần để chủ động tăng sự thông khí ở phổi. Sau một thời gian, tiếp tục hít vào 5 lần thở ra 7 lần.
 4/ Mắt :
Hai mắt luôn nhìn về phía trước. Trạng thái nghỉ ngơi của mắt là nhìn về vô cực.
 Khi mới khởi động nên đi từ từ, để ý phối hợp đánh tay, bước chân và hơi thở vì nếu phân tâm thì nhịp thở và bước chân sẽ sai.
 Đi bộ là môn thể thao đơn giản và ít tốn kém nhất. Khi đã quyết định chọn đi hằng ngày thì nên quyết tâm thực hiện thường xuyên. Đầu tiên nên có những trang bị tối thiểu sau :
-        Một đôi giầy thích hợp với việc đi bộ
-        Một đồng hồ báo thức nếu phải dậy sớm
-        Hai bộ quần áo thể thao để thay đổi, không nên ”ăn mặc thế nào cũng được”.
-        Hai quả cầu nhỏ bằng inox, hay bằng đá, để tập hai bàn tay (có bán ở các cửa hàng thể thao).
Phải nên tập đều đặn hằng ngày, kể cả khi phải thay đổi chỗ ở trong thời gian ngắn. Những ngày đầu đi bộ không nên quá cố sức, tùy theo sức khỏe mà tăng dần đoạn đường đi.Nếu đi bộ tích cực và thường xuyên thì hiệu quả chỉ là thời gian.

B/ NGÂM RỬA CHÂN BAN ĐÊM

    Ngâm rửa chân ban đêm thường thực hiện trước khi đi ngủ, tức là khi không còn đi lại nhiều. Nước ngâm rửa có thể hơi âm ấm, nếu trời lạnh, hoặc nước thường nếu trời nóng bức, người ta có thể dùng tay hay dụng cụ để rửa chân cho thực sạch và có thể xoa bóp đi kèm. Nước ngâm rửa có thể có các  hương liệu thêm vào để tạo thêm cảm giác và hương thơm dễ chịu. Ngâm rửa chân ban đêm đã được biết từ lâu và có các ý nghĩa khác nhau.
     Theo sử thi Odyssey, người anh hùng Ulysse sau mấy mươi năm lưu lạc, trở về nhà, cải trang thành một người ăn mày già nua, ốm yếu. Người vợ cũng không biết đó là chồng mình. Nhờ lời khuyên của”lão già”này,người con biết tự kềm chế,thoát hiểm trong một vụ thách đấu. Để tỏ lòng biết ơn, người vợ cho người hầu đến rửa chân Ulysse và người hầu trong khi rửa chân đã nhận ra ông chủ của mình.
      Ở Trung Hoa thời xưa, ngâm rửa chân ban đêm cũng phố biến trong dân gian. Theo truyện Thủy Hử, Lâm Xung trên đường bị lưu đày đến Thương Châu, khi đến một quán trọ nào vào lúc cuối ngày cũng nhờ chủ quán cho một chậu nước ấm để ngâm rửa chân. Nhờ vậy trải qua bao dặm đường xa, bao ngày dầm mưa dãi nắng hảo hán Lương Sơn Bạc vẫn gìn giữ được khí lực sung mãn.
 Chúng ta thử đứng về phương diện y học giải thích việc ngâm rửa chân ban đêm có tác dụng gì, và tại sao phải ngâm rửa chân mà không rửa tay.
       Tất nhiên việc ngâm rửa cả người là điều tối ưu, nhưng không thể thực hiện được một cách phổ biến, vì tốn một lượng nhiều nước và cần có vật dụng để chứa đựng lượng nước đó, trái lại việc ngâm rửa chân không đòi hỏi gì nhiều chỉ cần một chậu nhỏ và một lượng ít nước, nếu phải đun nóng lên cũng không tốn kém lắm.
          Hai chân là phần cơ thể phải hoạt động nhiều trong ngày và cách xa tim nhất, máu thường ứ trệ ở hai chân và chảy chậm về tim. Hai chân cũng là tận cùng của nhiều dây thần kinh cảm giác (nhiều người chịu nhột ở được ở mọi nơi, nhưng cù vào chân thì không chịu nỗi). Do đó mọi thay đổi nhiệt độ kéo dài ở hai chân có nhiều ảnh hưởng đến toàn thân. Nếu yếu tố không có lợi (như lạnh) kéo dài sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến toàn thân vì khó phục hồi.
        Pasteur nhúng chân gà trong nước lạnh làm hạ thân nhiệt nhanh chóng và chúng dễ bị mắc bệnh than.
           Trong dân gian cũng thường thấy khi gặp những người trúng gió, ngất xỉu (cơ thể lúc đó dễ bị nhiễm lạnh) thì những người già cả, nếu không có dầu nóng, vẫn thường dùng vôi ăn trầu bôi vào hai gan bàn chân, cũng phòng ngừa rất hữu hiệu cơ thể khỏi bị nhiễm lạnh.
          Ngoài ra hai chân thường tiếp xúc với đất, bụi, cát rất bẩn. Mồ hôi thường có nhiều ở kẻ chân, bàn chân nên thường gây ra các cảm giác ngứa ngáy, khó chịu này như được tăng thêm trong đêm thanh vắng.
         Vậy ngâm rửa chân với nước ấm ban đêm trước khi đi ngủ sẽ làm cho máu lưu thông về tim nhanh hơn, thân nhiệt điều hòa và một cảm giác dễ chịu, sảng khoái sau đó sẽ kéo theo một giấc ngủ sâu lâu hơn. Một giấc ngủ ngon là một liều thuốc quý giá giúp cơ thể hồi phục nhanh chóng sau một ngày làm việc.
        Việc ngâm rửa chân, có thể làm giảm bớt sự nóng nảy, tức giận, gặp phải trong cuộc sống đời thường.

    C /  TỪ TỪ  VÀ  ĐỀU ĐỀU
                                                                            BS Đỗ Hồng Ngọc

     
  Ở tuổi già, hai chân như mọc dài ra, trở nên nặng nề, không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, xương loãng ra, mỏng, giòn, dễ gãy…! Ấy cũng bởi cả một thời tuổi trẻ đã ”Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…“(Trịnh Công Sơn)!
Khám bác sĩ, bác sĩ thường khuyên nên vận động để tránh bệnh này bệnh khác, nào ngăn ngừa tiểu đường, tim mạch, giảm trầm cảm, lo âu…, thế nhưng nếu không khéo ta lại rơi vào tình trạng”quá tải”khiến bệnh nặng thêm.
Ngay cả đi bộ, có lẽ là cách tập đơn giản và dễ dàng nhất cũng phải tùy sức. Một người có trái tim mệt mỏi đã lâu, đập nhát gừng, loạn nhịp, nếu ráng sức quá dễ dẫn đến những điều không hay. Có người hùng hục chạy rồi gục ngã trên sân tennis, có người uốn éo rồi gãy cột sống cổ, cột sống thắt lưng trên sàn tập yoga, nhất là những khi ganh đua với thầy với bạn!
       Bây giờ ta thấy ngoài công viên, trên đường phố toàn những người già hì hục chạy, nhảy, vận động hết cỡ như để bù lại lúc trẻ mãi ngồi yên một chỗ phì phà thuốc lá cà phê! Ngày xưa người ta săn bắn, hái lượm, đánh cá, làm ruộng, làm rẫy… lao động suốt ngày nên lúc nào cũng có được vận động thể lực. Bây giờ đời sống đô thị nhiều người chỉ ngồi quanh quẩn trước TV, máy  tính! Có một nguyên tắc ”Use it or lose it!”. Cái gì không xài thì teo! Thời đại bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên ”đầu to mà đít teo”.
          Cơ thể ta có trên hai trăm cái xương được lắp ghép với nhau bằng các khớp, bằng các thứ dây chằng, qua năm tháng dễ bị khô héo, rồi các bắp cơ các dây thần kinh cũng cần luôn hoạt động để không bị đơ cứng. Mỗi ngày đều đều 30 phút tập thể lực, dù là aerobic, khí công, nhu quyền, yoga, thiền, tài chí, thái cực quyền, dịch cân kinh… đều tốt cả, miễn vận động đó phải kết hợp với hơi thở.
      Ngay cả người già lạy Phật hàng ngày cũng là một cách vận động thể lực tốt, nếu giữ đúng tư thế, để không bị cụp xương sống, mỏi lưng, đau nhức rồi đổ thừa cho Phật thì không nên!
       Dĩ nhiên ở người có tuổi, vận động thể lực không phải để có vai u thịt bắp, để có thân hình lực sĩ để đi thi đấu mà mục tiêu chủ yếu là tạo sức bền, sự dẻo dai, sự linh hoạt và sự cân bằng. Nhờ đó tránh được té ngã, giúp cơ thể hoạt động bền bỉ, ít mệt mỏi, ăn ngon, ngủ ngon.
      Các phương pháp như thiền, tài chí, yoga, thở bụng… giúp giải stress, giữ cân bằng, giảm huyết áp… đã được chứng minh và áp dụng hiện nay ở một số các cơ sở điều trị y khoa.
           Không cần đi đâu xa, không cần phương tiện cầu kỳ, tốn kém. Có thể tập ngay trong nhà. Nếu nhà có cầu thang thì leo cầu thang mỗi ngày vài bận cũng sẽ rất tốt thay vì lúc nào cũng dùng thang máy. Thậm chí đi vòng vòng trong nhà cũng được. Từ từ và đều đều… Đến lúc nào thấy ”ghiền”, bỏ tập một buổi… chịu hổng nổi là được!
       Vận động thể lực đúng cách thì già sẽ chậm lại. Giảm trầm cảm, buồn lo. Phấn chấn, tự tin. Vận động mà thấy chóng mặt, nhức đầu, khó thở, mệt, buồn nôn, choáng váng, mất thăng bằng thì phải khám bác sĩ ngay.
     Đừng ráng sức quá và đừng cố tranh đua với người khác.
     Mỗi người có tâm sinh lý, bệnh lý riêng của mình!

                                            ___________


  THƠ HOÀNG CÔNG BÌNH        

               Tôi đi học
Một sáng mùa thu, mợ dắt tôi đến lớp
Cỏ bên đường còn ướt sương mai
Sân trường quê phủ đầy cát trắng
Những hàng cây không che hết trời xanh

Mấy tháng sau cả nước chiến tranh
Trò ở nhà thầy đi du kích
Trường lớp thành vườn trống nhà không
Chữ a, b dấu mặt ngậm ngùi

Làng tôi không xa đồn địch đóng
Giữa đạn bom, đi học bình dân
Đêm Huế lạnh cầm đèn đến lớp
Tay run run viết chữ i-tờ

Điều bình dị, không yên với giặc
Chúng kéo về đốt sạch xóm thôn
Trường thân yêu biến thành tro bụi
Tôi rưng rưng đọc lại i-tờ

Giặc lại về dóng thêm dồn bót
Bỏ làng đi lên ở chiến khu
Vẫn đi học một thầy một lớp
Năm bảy trò góp gạo nuôi nhau

Bên bờ suối, dưới tán cây
Chuyện đèn sách là điều kỳ diệu
Bình thường như mây ngàn gió núi
Đời nên vui chữ nghĩa kéo nhau về

Năm năm tư đất nước thanh bình
Tôi theo mẹ vào nam đi học
Mười lăm tuổi chưa xong cấp một
Đành cưa sừng làm nghé ba năm

Thầy thương tình cho vào lớp nhất
Miệt mài thôi kẻo bóng qua cầu
Đậu tiểu học rồi vào đệ thất
Thằng nhà quê bị chúng chê già

Bảy năm ròng còng lưng ngựa sắt
Phan Thiết –Phú Long ngày hai buổi đi về
Trời Bình Thuận vào mùa gió chướng
Áo em bay xao xuyến đường trần

Phố Nguyễn Hòang thiên thần qua lại
Mái trường Phan thấp thoáng dáng kiều
Khung trời rộng chứa đầy mơ ước
Cuộc đời nào mà chẳng nở hoa

Năm sáu ba mới xong trung học
Lại về Trung, tính chuyện mai sau
Thi sư phạm gắn nghề với chữ
Còn gì hơn được sống với trường

Bốn năm ròng qua lại sông Hương
Cầu Tràng Tiền lê mòn gót dép
Chiều mùa đông mưa dầm gió buốt
Áo phong phanh không che hết vai gầy

Ở góc vắng trên thành Thựơng Tứ
Nhìn mưa bay mờ mịt hồ sen
Tiếng tam hường nhà ai lẻng kẻng
Hàng chè the che khuất trạng nguyên

Suốt một thời hoan hô đả đảo
Xuống đường rồi bãi khóa đấu tranh
Dẫu muốn học nhưng đời phải thế
Ta nhìn nhau chữ nghĩa vơi đầy

Xót ở quê mẹ lo tiền tháng
Chị tảo tần hôm sớm nuôi em
Trên giãng đường sa vào vòng xoáy
Quay tít mù hư thực thực hư

Năm sáu bảy nhận bằng tốt nghiệp
Tôi nhìn trời xanh quá là xanh
Rồi nhìn đời mắt biết học sinh
Con đường học trải dài hun hút
… Từ ngàn xưa cho đến ngàn sau.


Nhà tôi ở ven sông


Nhà tôi ở ven sông
Những sáng triều dâng gió đày hơi nước
Gõ nhẹ vào hồn những nốt xôn xao
Nhà tôi ở ven sông
Mặt trời lên, nắng hòa trong nước
Sóng vỡ tan thành hạt sáng long lanh
Nhà tôi ở ven sông
Trưa hè tơ trời đan trong gió
Tiếng sáo trầm ngơ ngẩn cánh diều nâu
Nhà tôi ở ven sông
Chiều ươm màu sáng
Đàn cò về mang nỗi nhớ mênh mông
Nhà tôi ở ven sông
Đêm bôi đen mặt nước
Gió chở trăng về kẻo sóng cô đơn
Nhà tôi ở ven sông
Khuya nào sông cũng khóc
Phù sa đi, đi mãi không về
Sông ơi sông
Muôn đời vẫn thế
Kiếp tằm tơ phải nhả cho đời
Mây trắng bay
Chiều nay mây trắng bay nhiều quá
Chạnh lòng ta nhớ đến người thương
Lâu lắm không về thăm quê được
Chẳng biết bây chừ ngoài nớ răng
Một con cò xám bên sông vắng
Mải miết tìm mồi lạc đường bay
Chiều đông bóng chiếc buồn nhớ tổ
Chỉ thấy đầy trời mây trắng bay
Cũng vẫn một chiều mây trắng bay
Năm xưa ngồi đếm ngón tay gầy
Em bảo mai sau nên đôi lứa
Chúng mình còn sợ mây trắng bay ?
Vì đã không nên đôi lứa được
Suốt đời còn sợ mây trắng bay

Chiều bên sông

Ta ngồi bên bờ sông
Ngắm dáng chiều tắm nắng
Đôi vai trần xa vắng
Xao xuyến cõi thinh không
Một giọt sáng long lanh
Một nốt trầm lưu luyến
Mây trôi về núi tím
Sóng vỗ mặt đê hồng
Ta vẫn ngồi bên sông
Dáng chiều đi chầm chậm
Khuất bóng vào mênh mông

                                             Thì thầm với Mẹ

Ngày xưa Mẹ dắt con đi học                           Ngày xưa khi con lâp gia đình
Dặn phải ngoan đừng để thầy buồn                Mẹ nhìn con mỉm cười đôn hậu
Nay một mình đứng trên bục giảng                Ánh mắt nụ cười theo con mãi
Nhìn xuống học trò thấy vui vui                     Suốt đời này và cả đời sau

Ngày xưa Mẹ dắt con ra phố                          Cảm ơn mẹ những điều rất thực
Dặn theo sau đừng để lạc đường                    Rất con người và rất tự nhiên
Nay một mình giữa đời vạn nẻo                     Mẹ đã cho con khổ đau, hạnh phúc
Bước đi nào như có mẹ theo                           Cả cuộc đời với những buồn vui.

                                                        ___________
                     
                                           TÌNH BẠN
                                                                                       Lê Quang Chiêu

     
 Thời gian thấm thoát trôi qua, kể từ năm 1956 khi chúng ta cùng nhau vào học lớp đệ thất trường Phan Bội Châu đến nay đã 60 năm, 60 năm đi qua như giấc mộng, bao nhiêu vui buồn thoáng qua,
Mùa xuân ta đi tìm gặp lại
Có bạn còn đây, có người mất dấu
Buổi chiều gió thổi mây bay..
                                    (Dương Tấn Quý)
          Tuy nhiên, có những điều tuy thời gian đã lâu nhưng vẫn còn in đậm lại trong ký ức của tôi, đó là TÌNH BẠN.
          Đầu năm 1965, lúc đó tôi đang ở Sài Gòn – tôi chỉ học ở Phan Bội Châu đến khi thi Tú Tài 1, hết năm học 1962 - ăn Tết vừa xong thì được tin đoàn Thanh niên chí nguyện mở lớp tập huấn đào tạo những người tình nguyện giúp dân ở những vùng khó khăn khắp miền Nam từ Bến Hải đến Cà Mâu. Lớp tập huấn có 4 môn (mỗi người chỉ tham gia một môn) : canh nông, y tế, xã hội và giáo dục, tôi đăng ký vào bộ môn canh nông.
Khóa tập huấn chấm dứt, khóa này các học viên được phân công về 2 tỉnh Ninh thuận và Quảng Nam, tôi đăng ký đi Quảng Nam, vùng đất khó khăn.
 Sau 1 giờ bay từ phi trường Tân Sơn Nhất, chiếc phi cơ quân sự thả chúng tôi xuống phi trường Đà Nẵng, và mấy chục chúng tôi được xe nhà binh đưa vào Hội An, tới nơi, đoàn chúng tôi lại được chia ra nhiều địa điểm, mỗi nơi là 1 tổ 4 người cho 4 môn, mỗi người phụ trách môn đã được đào tạo, tổ trưởng và các tổ viên chịu trách nhiệm về kế hoạch hoạt động của tổ mình tại địa phương đã được chỉ định. Tổ chúng tôi được phân công ở nhà một người dân tại xã Cẩm Hà là xã ven Hội An
        Ngay hôm sau, chúng tôi đã bắt đầu làm việc, riêng tôi đi tới các ruộng trong vùng để khảo sát, tình cờ gặp anh Từ Ngọc Nam đang dạy học tại Hội an, gặp nhau chúng tôi rất vui mừng, rồi chính anh Nam hướng dẫn tôi đi thăm các cánh đồng trong vùng, và thật thất vọng vì hầu hết các cánh đồng ở đây thay vì trồng lúa lại trồng toàn cỏ tranh lợp nhà, vậy là những điều tôi được tập huấn đã không thể áp dụng được, vì trong lớp tập huấn chỉ dạy cách chăm sóc, bón phân, phòng ngừa sâu bệnh cho cây lúa mà thôi. Ngày này qua ngày khác anh Nam sau giờ dạy lại cùng tôi lang thang từ thửa ruộng này đến thửa ruộng khác trong vùng, đồng thời tìm gặp chủ các thửa ruộng đó để tìm hiểu lý do không trồng lúa.
Trong khi các bạn khác đã và đang thực hiện được công việc giúp ích cho dân trong vùng thì tôi chẳng có việc gì làm, buồn, sau gần một tháng tôi từ giã tổ để đi về nhà, trong khi mọi người còn đang công tác.
Trên đường đi về lại nhà, tôi phải trở ra Đà Nẵng, tình cờ gặp Lê văn Hai đang làm y tá tại nhà thương ở đây, mặc dù học cùng lớp, Hai và tôi chỉ giao thiệp với nhau bình thường như các bạn cùng lớp khác, nhưng khi gặp ở đây hai người đã tay bắt mặt mừng, Hai đi tìm chỗ ở cho tôi, và sau đó ngoài giờ làm việc Hai đã vui vẻ đưa tôi đi ăn uống, ban ngày hướng dẫn tôi đi thăm các thắng cảnh ở đây, và chiều tối lang thang bên bờ sông Hàn thơ mộng.
        Tôi đã ở Đà Nẵng một tuần, đáng lẽ đi xe đò về Quảng Ngãi, nhưng biết tin anh Huỳnh Ngọc Ghênh đang học Hán học tại Huế, nên tôi đi ra Huế chơi. Anh Ghênh ở trong Đại học xá Nam Giao, tôi cũng vào ở chung, vậy là hai người ngủ chung một giường, Tiết trời Huế vẫn còn lạnh, ban ngày ngoài giờ học anh Ghênh đã đạp xe chở tôi đi viếng tất cả lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn - trừ lăng vua Gia Long bị cấm không cho tham quan -, viếng chùa Thiên Mụ, vào thăm Thành nội, thăm đồi vọng cảnh v. v. chiều tối đi thưởng thức các món ăn ở quán cơm Âm phủ, hoặc những quán ở ven sông Hương gần chợ Đông Ba và chung quanh cầu Gia Hội.
      Tôi ở Huế một tuần và đáp xe đò về Quảng Ngãi, rồi từ đó đi ghe về Qui Nhơn nơi Phạm Văn Nghệ đang học sư phạm, tại đây tôi cũng ở chung phòng trọ với Nghệ, thật tình cờ tôi lại gặp Nguyễn Văn Ba (Ba saumure), Nguyễn Thanh Quang, anh Trương Vĩnh Đức. Tại đây ngoài giờ học Nghệ và tôi lại đạp xe đi thăm các nơi : mộ Hàn Mặc Tử tại Ghềnh Ráng, thành Đồ Bàn, hai tháp Chàm v. v. và đi tắm biển Qui Nhơn. Vì đường bộ lúc bấy giờ bị cắt, nên sau một tuần ở Qui Nhơn tôi phải đi ghe về Phan Thiết.
       Ngoại trừ Nghệ và tôi rất thân nhau vì đã có một thời gian ở chung với nhau, nhưng với các người khác chỉ là bạn học giao thiệp bình thường như bao bạn học khác, nhưng gặp nhau nơi xứ lạ đã tay bắt mặt mừng rất là thân thiết, tận tình hướng dẫn đi thăm viếng mọi nơi, rồi từ đài thọ tiền ăn, đến tìm chỗ ngủ.
TÌNH BẠN THẬT ẤM ÊM BIẾT BAO ! 
                                                                     
                                                  ______________

 THƠ              
                                Thả diều                                                          

Trên cánh đồng mới gặt
Mùi lúa còn ngất ngây
Cánh diều căng đầy gió
Lũ trẻ kéo dây trời

                                     Trời lên cao gió lộng
                                     Diều chao cánh nhả tơ
                                     Khúc Trương Chi trầm bổng
                                     Vọng  từ  cõi xa mờ

                                                                              Chiều buông từng mảng tối
                                                                              Gió  dịu dần cơn say
                                                                              Diều sải dài lên cát
                                                                              Lũ trẻ kéo nhau về

       
                                                                                         
                                                                                               Hoàng Bình
                                                      ____________

     NGÀY VỀ GẶP LẠI THẦY VĨNH GIÊN        

                                                                                         
                                                                        Phạm Quỳnh Châu
                                                                         
     
         Trong những ngày mở chiến dịch giải phóng tỉnh Bình Thuận tháng 4 năm 1975, tôi  công tác trong ở Bộ chỉ huy tiền phương quân khu 6, được  phân công giúp việc cho đồng chí Nguyễn Quý Đôn, lúc đó là Bí Thư Tỉnh Ủy Bình Thuận trực tiếp làm Bí thư Đảng Ủy Bộ chỉ huy tiền phương,nhờ đó giải phóng đến đâu, tôi được đến đó..
     Tối 18/4/1975 Quân đoàn II giải phóng Phan Thiết, 8 giờ sáng ngày 19/4/1975, Bộ chỉ huy tiền phương vào Phan Thiết. Sáng  20/4/1975 chúng tôi làm việc vói Bộ chỉ huy Quân đoàn II, cho đến 9  giờ mới xong,tôi được phân công đi một vòng nội ô  Phan Thiết để quan sát lực lượng cá cơ quan, đoàn thể vào tiếp quản Phan Thiết.
      Lúc đó, tôi đi trên một chiếc xe jeep lùn, lấy được khi giải phóng Thiện Giáo ( Ma Lâm). Xe tôi đang chạy chậm trên đường Trần Phú ( Đồng Khánh), hướng từ nhà thờ Lạc Đạo đến chợ Phan Thiết.Tôi yêu cầu tài xế chạy thật chậm, để tôi nhìn Phan Thiết, nhìn đường phố, nhìn những ngôi nhà thân quyen sau hơn chục năm tham gia cách mạng trở về.
     Xe chạy đến gần nhà in Nghĩa Thuận, thì đột nhiên có người  xuống lòng đường dang hai tay chận xe lại và kêu thật to “ Phạm Quỳnh Châu, Phạm Quỳnh Châu”, tôi nhìn kỷ lại, nhận ra thầy Vĩnh Giên, người thầy vui tính, có phương pháp dạy  địa lý rất  độc đáo, đến mức gần 6o năm qua tôi vẫn còn trong trí nhớ những bài học của thầy về cách vẽ bản đồ Việt Nam, thế giới, hệ thống sông ngòi, núi non, tài nguyên thiên nhiên của nước ta, nhớ rất nhiều kỷ niệm sâu sắc về thầy.
      Tôi lật đật nhảy xuống xe, chạy đến ôm thầy.Thầy vẫn tiếp tục gọi tên tôi: Phạm Quỳnh Châu, Phạm Quỳnh Châu, với giọng thân thương trìu mến.
Tôi nói với thầy : “  Em nhận ra thầy ngay và thấy thầy không  khác xưa nhiều” . Một loạt ký ức tràn về trong tôi, tôi mừng vô cùng.
Tôi hỏi sao thầy nhận ra em mà đón. Thầy nói :
- Nghe mấy đứa nói thấy cậu từ chiều hôm qua, sáng nay bất ngở, đứng trên đường thấy cậu, mình nhận ra ngay, mừng quá, gọi cậu,
     Hai thầy trò, sau 13 năm xa cách (tôi ra trường Phan Bội Châu năm 1962), gặp nhau được khoảng 5 phút, chủ yếu, nói lời thăm hỏi sức khỏe,cuộc sống,.
Những kỷ niệm gặp thầy lần này tuy chỉ khoảng 5 phút, nhưng là một cuộc găp bất ngờ, hết sức ngạc nhiên, nhưng quá đỗi thân thương, của hai thầy trò, đang ở trên hai trận tuyến, nhưng gặp nhau,chỉ có tình thầy trò và ký ức một thời học ở trường Phan Bội Châu. Tình Thầy Trò của những năm học ở trường Phan Bội Châu là vậy đó!

                                     ________
       

             SÁU MƯƠI NĂM - KHÔNG THỂ NÀO QUYÊN

                                                                      Tự truyện của Nguyễn Thế Tân  
                                             
          Tôi được vào lớp Đệ thất 1 niên khóa 1956-1957 khi cơ sở trường Phan Bội Châu mới vừa xây cất xong. Lớp tôi có 65 nam sinh do anh Phạm Quỳnh Châu làm liên đội trưởng và anh Võ Linh Nghiệm làm liên đội phó.
Khác với bậc tiểu học, niên khóa đầu tiên này, chúng tôi được học thêm hai môn nhạc và vẽ. Thích nhất của tôi vào thời ấy là : trong giờ nhạc chúng tôi được xem cái máy đánh nhịp đong đưa qua lại, gõ kêu như quả lắc đồng hồ. Trong giờ nhạc , chúng tôi cũng được thầy cho luyện tập bằng cây thước bảng gỗ gõ vào bàn của thầy để kiểm tra, để tập xướng âm và hát cho đúng nhịp. Phần lớn chúng tôi đều gõ sai nhịp, do run sợ nên đã gõ liên hồi như thầy chùa gõ mõ, tụng kinh. Nhưng lần này thầy và cả lớp cùng cười, những nụ cười đầy cảm thông chia sẻ những vụng về của tuổi thơ.
    Rồi đến giờ vẽ, chúng tôi thích nhất là giờ kiểm tra các bản vẽ của toàn lớp. Tất cả các bản vẽ này đếu được treo lên bảng công khai bạch nhật, để cùng nhau trao đổi mỹ thuật, so sánh cái hay cái dở của từng bản vẽ trong môn hội họa đầy ấn tượng này, để thầy có cơ sở chấm điểm công khai.
          Năm học đầu tiên, chúng tôi được học hai buổi sáng chiều. Thời ấy các phong trào thể thao, văn nghệ cũng được phát triển mạnh. Chúng tôi cùng ngồi ca hát, nhảy múa, diễn kịch quanh ánh lửa bập bùng trong những đêm cắm trại xa trường.
    Sau ngày bãi trường đầu tiên ở lớp Đệ thất, anh Phạm Quỳnh Châu và anh Nguyễn Công Thành đề xướng dùng thời gian nghỉ hè để làm tập san”Bình Minh Thất 1”. Tập san này ra đời không có nguồn tài chánh nào hỗ trợ, mà do các thành viên trong lớp chúng tôi tự bỏ tiền ra đóng góp. Thời đó làm gì mà có tiền in ấn và có máy quay ronéo, nên mặt bìa và các trang báo trong tập san rất thô thiển từ nét vẽ đến nét chấm phá, lẫn màu sắc cũng không được đẹp cho lắm. Tôi viết chữ đẹp nên được anh Nguyễn Công Thành phân công viết bản thảo bằng ngòi viết bắp chuối chấm mực in để có nét chữ lớn rõ và đậm cho dễ đọc. Phần chính là cách trang trí các trang báo và các hình vẽ, anh Châu, anh Nghiệm và anh Thành thực hiện. Viết bản thảo xong tôi phải đọc lại, dò soát từng câu, từng chữ để tránh sai sót, và xếp đặt các bản thảo ngăn nắp nơi khô ráo tránh lem luốc. Về in ấn, chúng tôi dùng bột năng, bột mì, pha trộn với chút ít bột gạo rồi nhào nặn với nước. Sau đó chúng tôi cán ra để độ dày tối thiểu bằng một lóng tay làm nền in. nền này, căn bản phải bằng phẳng và trắng không một vết dơ nào có trên mặt, nền bột không được nhão hoặc khô. Cái khó nhất của người đứng ra in ấn là phải kiên trì và đều tay, vì khi đặt bản thảo xuống nền bột, hai tay phải đồng bộ và đều, nhẹ tay vuốt bản thảo cho êm và sâu để bản in được đậm mực trong nền bột, sau đó gỡ nhẹ ra cho đều, tránh rách giấy và nhăn nhó. Mỗi bản thảo trên nền bột chỉ in ra được khoảng 15 bản rõ chữ, càng in về sau, chữ và hình ảnh càng mờ nhạt. Khi in không còn rõ chữ, chúng tôi phá nền bột cũ, đổ nước cho mực chảy hết, thêm bột, nhào nặn làm nền khác để in tiếp.
       Rồi tập san”Bình Minh Thất 1”cũng được ra đời, trong đó cũng chất chứa những truyện phiếm, hý họa, ký sự bằng những cây bút non nớt, rặt mùi học trò. Trong cuốn đặc san này hầu hết bài nào cũng hay và cũng chất lượng, chỉ có bài viết của tôi là chưa được hoàn chỉnh vì không biết chải chuốt câu văn và dùng từ hoa mỹ, nhưng nó lại có hồn hơn các bài khác vì chủ đề”lưu bút ngày xanh”của tôi mang đầy ắp kỷ niệm vui buồn của năm học mà  bạn bè đã ghi lại trong quyển ký ức này trong ngày bãi trường.
      Mùa tựu trường năm sau, chúng tôi được ngồi vào lớp Đệ lục 4. Sĩ số học sinh có thay đổi đôi chút vì vài đứa bạn phải rời bỏ mái trường thân yêu để theo gia đình đi xa. Có đứa phải nghỉ học vĩnh viễn để tìm kế sống ở miền quê.
 Năm nay, lớp chúng tôi có thêm được nhiều thầy cô mới đến dạy. Phong trào văn thể cũng được thầy Hiệu trưởng Lê Tá và thầy Tổng giám thị Vĩnh Giên tích cực đẩy lên đỉnh cao. Chúng tôi tha hồ tranh giải bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ và biểu diễn kịch nghệ, ca hát dưới ánh lửa bập bùng trong những ngày cắm trại ở Hố Lở, ở đồi Ngọc Lâm và ở núi Tà cú.
        Trong lớp học, các thầy cô mới đổi về, nổi bật nhất là thầy Hồ Thế Viên dạy Văn, thầy đã gây nhiều ấn tượng và niềm vui hào hứng nhất cho chúng tôi. Thầy biến lớp học thành sân khấu. Thầy bắt chúng tôi đóng kịch, diễn xuất các vai trong các bài thơ ngụ ngôn nổi tiếng của La Fontaine. Trong một bài thơ diễn tả cảnh phân xử giữa hai người tranh nhau một con sò, Nguyễn Thúc Soại, bạn của chúng tôi, là người đóng vai quan tòa, cách diễn xuất thật hoàn chỉnh khi nét mặt của Soại luôn luôn trầm tĩnh, nhưng cũng có lúc hét lên những tiếng lớn gay gắt thì tay vỗ bàn, chân dậm đất thật đúng với phong cách hách dịch của quan tòa. Trông bộ dạng diễn xuất của Soại, thầy trò chúng tôi vui nhộn và phải một phen cười hả hê, đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ kỷ niệm này.
     
       Không rõ lý do nào mà năm ấy, tôi học ít, đi chơi nhiều. Tôi đam mê đá banh, tắm biển và đi về miền quê xa hái trái cây, bắt dế. Tối dạo phố, ngồi bờ sông xem mọi người câu cá. Tôi ít khi thuộc bài, còn làm bài thì thường hay ngó trộm bạn bè để cóp pi. Kết quả cuối năm đã làm cho tôi giật mình. Điểm trung bình của tôi cả năm chỉ có 8, 50 / 20. Tôi phải thi lên lớp. Sợ cha mẹ đánh đòn vì biếng học, nên tôi liều, tự ý sửa điểm trong thông tín bạ từ 8, 50 lên 10, 50 / 20. Bị liên đội trưởng phát hiện, nhà trường bắt tôi phải thi lên lớp và đuổi học một tháng trong niên học mới. Nhập học, tôi thi lên lớp đủ điểm và được lên lớp.
 Ngày khai trường năm ấy, các bạn tôi nhập học đầy đủ, còn tôi thì bị kỷ luật, phải nhập học trễ hơn một tháng. May thay, tôi gặp được thầy Vĩnh Giên, tôi năn nỉ thầy giúp đỡ cho tôi đi học sớm, để theo kịp bạn bè. Thương tôi, tuần lễ sau, thầy can thiệp để cho tôi vào học sớm 20 ngày. Thầy Vĩnh Giên dắt tôi vào học lớp đệ ngũ 4 để học. Lúc này, lòng tôi se thắt lại và ngỡ ngàng, các bạn bè cùng học năm Đệ lục 4 với tôi, nay đã chuyển sang các lớp khác hết phân nửa, do nhà trường phân chia, cân đối lại các lớp mới theo sinh ngữ chính Anh hoặc Pháp vì các năm trước chúng tôi học hai ngoại ngữ Anh và Pháp, năm nay chỉ học một ngoại ngữ là Anh hoặc Pháp mà thôi.
Một điều làm tôi ngạc nhiên nhất là năm nay lớp nào cũng có cả học sinh nam và nữ học chung. Sau này nghĩ lại đây là dịp may cho tôi thoát khỏi căn bệnh ham chơi, lười biếng học bài. Tôi không còn dám lì lợm để”đứng chào cờ”mỗi khi trả bài nữa, và cũng vì năm nay tôi đã lớn, biết mắc cỡ với các bạn nữ sinh. Năm nay, nhà trường còn đặt ra cái băng tay, trong  đó có ghi tên họ và lớp, bắt mọi học sinh phải cài lên áo, để nhà trường dễ kiểm soát. Ai không đeo là vi phạm nội qui của trường, từ đó trong đám học sinh có 4 câu thơ :
                     Thân em nho nhỏ mà xinh
                    Không em một mình, anh học sao yên
                    Vào trường nếu gặp thầy Giên
                    Cho anh lãnh đủ hai viên tròn tròn
           Tôi vào học trễ hơn các bạn gần hai tuần lễ, nên các bài dạy của các thầy cô vẫn còn nằm ngổn ngang phía trước đối với tôi rất nhiều, bắt buộc tôi phải phấn đấu tìm bạn bè để xin chép lại bài vở cho đầy đủ, để học cho theo kịp các bạn.
      Một buổi trưa, tôi mạnh dạn đến nhà trọ của Lưu Thị Hồng Anh, người bạn gái cùng lớp nhỏ hơn tôi hai tuổi, để mượn bài vở chép lại. Gia đình Hồng Anh ở tận Ma Lâm cách Phan thiết 16 km, nên khi xuống tỉnh học Hồng Anh phải ở trọ tại nhà người bà con ở trong một con hẻm cách nhà tôi chừng 500 m. Căn nhà trọ này, ngoài nhà ở, còn có một lớp học, nằm bên trong một cái chái vách ván, nóc lợp tôn, trong đó chứa chừng mươi bộ bàn ghế cũ để dạy tư học trò bậc tiểu học trong xóm, chủ nhà trọ là thầy cô giáo làng, rất hiền lành, và chị giúp việc cũng lớn hơn tôi chừng mươi tuổi. Các người trong nhà lúc nào cũng niềm nở, chuyện trò vui vẻ với tôi mỗi khi tôi đến giao tiếp với Hồng Anh. Lúc đầu, tôi còn ngỡ ngàng, mượn vở về nhà chép, nhiều lần đến tôi trở thành quen, rồi tôi đem một chồng vở vào ngồi ở lớp học chép bài trong các giờ nghỉ. Lắm lúc sau này, ban đêm rảnh, tôi cũng thường tới chơi, gặp Hồng Anh trò chuyện và nhờ cô bạn chỉ bài cho tôi. Khung cảnh đầm ấm này, tôi trở thành người thân của gia đình, tôi được Hồng Anh và mọi người quý mến.
       
      Rồi cứ mỗi chiều Chúa nhật, tôi xuống đây thật sớm, để chờ Hồng Anh từ Ma Lâm xuống cho tôi mượn bài tập để chép và giảng giải lại những bài tôi còn thắc mắc mà ở lớp học tôi chưa được hiểu tường tận. Nhờ vậy, mà một thời gian sau tôi học tiến bộ, tiến gần kịp với các bạn trong lớp. Một hôm, vào ngày Noel, tình cờ tôi được Hồng Anh tặng cho tôi một thiệp mừng Giáng sinh (Hồng Anh theo đạo Tin Lành), mặt trước của thiệp là hình Chúa Hài đồng rất đẹp. Bên trong có những giòng chữ xinh đẹp của Hồng Anh”Mến tặng Nguyễn Thế Tân, người bạn cùng lớp”. Rồi gần Tết, tôi cũng được Hồng Anh tặng thiệp mừng xuân. Nhờ Hồng Anh, mà năm nay tôi đã giảm đi chơi và bắt đầu chú tâm vào việc học, nên cuối năm Đệ Ngũ 4 tôi thừa điểm để lên Đệ Tứ.
        Mùa hè đã trôi qua được gần một tháng. Lâu quá không gặp Hồng Anh, tôi lên Ma Lâm bằng xe lam để thăm Hồng Anh. Gặp tôi, Hồng Anh mừng lắm, tôi lại giường thăm mẹ Hồng Anh đang bệnh, và cầu mong ơn trên ban phước lành để bà mau hết bệnh. Chơi ở đây chừng một tiếng tôi cáo từ ra về.
           Ngày bãi trường của năm Đệ Ngũ 4, một lần nữa anh Phạm Quỳnh Châu và anh Nguyễn Công Thành lại mời tôi cộng tác để ra tập san”Tiếng Thơ”. Qua kinh nghiệm cách làm tập san lần trước, lần này tập san”Tiếng Thơ”ra đời sớm hơn dự định. Trong tập san này, tôi có hai trang để viết bài”Mùa phượng vĩ”. Anh Châu và anh Thành cho biết bài vở của tôi lần này có tiến bộ nhiều, trong đó có 2 câu thơ tôi đặt mà ngày nay tôi vẫn còn nhớ.
 Bình Minh Thất một ra đời
 Tiếng Thơ Ngũ bốn cách vời hai niên
           Rồi đến mùa khai trường, tôi được lên lớp Đệ Tứ 4, bao nhiêu bạn bè chúng tôi dốc hết sức mình vào kỳ thi Trung học đệ nhất cấp. Lần này tôi chơi ít, học nhiều. Được người chú học ở Sài gòn gởi về cho tôi sách vở, tài liệu luyện thi, lúc đó tôi có thêm bạn  Nguyễn Duy Điểu nhập nhóm cùng học thi. Chúng tôi đã làm hết các bài tập Toán, Lý, Hóa và Anh văn trong tài liệu chú tôi gởi về. Bên cạnh đó tôi cũng được Hồng Anh chỉ dẫn thêm. Kết quả kỳ thi năm đó chúng tôi đều trúng tuyển ở kỳ thi 2.
      Đậu xong, được lên Đệ Tam A, Hồng Anh, Điểu và tôi tiếp tục học chung. Đã có căn bản về các môn Toán, Lý, Hóa, Anh, tôi rất thích học và không còn ham chơi nữa. Năm Đệ Tam A là năm dưỡng sức, việc học bình thường. Điểu và tôi được nhà trường cử đi thi điền kinh cùng với các bộ môn khác như bóng đá, bóng rổ do thầy Vũ Ngô Hoằng dìu dắt đi Nha Trang thi. Tất cả các bộ môn thi đều không đạt, chỉ duy nhất Nguyễn Duy Điểu đoạt huy chương vàng ở bộ môn điền kinh chạy 1500 m. Tiếng hoan hô Điểu khi chạy về nhất vang dội tưởng chừng như vỡ cả hội trường. Lớp của chúng tôi đoạt chức vô địch bóng đá của trường mà tôi là thủ môn của đội bóng.
      Rồi ba tháng hè cũng trôi qua, bước vào năm học Đệ Nhị A, chúng tôi lại dồn sức để học thi Tú tài 1. Học được 2 tháng thì mẹ tôi là cô giáo được đổi về dạy học ở ngay trung tâm Sài gòn. Lúc này Điểu, Khoa (em ruột tôi) và tôi ở chung tại nhà tôi. Tháng thứ ba, tôi xin giấy chứng nhận của trường Phan Bội Châu để chuyển về Sài gòn học.
         Vào Sài gòn, tôi bỏ ban A, chuyển sang ban Toán B, ở đây tôi học trường tư thục Quốc Anh, chiều và tối học luyện thi ở trường Văn Lang và Việt Nam học đường. May mắn cho tôi, những bài luyện thi của các trường này đều trúng tủ trong kỳ thi. Tôi rớt kỳ 1, nhưng đậu kỳ 2 Tú Tài 1 ban B.
          Năm sau, tôi tiếp tục học Đệ Nhất ban B trường Văn Học của giáo sư Trần Bích Lan (nhà thơ Nguyên Sa). Niên học này tôi học chung với chị Lê Thị Thanh Lan (chị ruột Lê Thiệu Hùng) mãi nhiều năm sau mới biết học chung với cả Lê Quang Chiêu, sở dĩ như vậy vì mặc dù hai người đều học chung trường với nhau từ năm lớp Đệ Thất, nhưng hai người học khác lớp, Chiêu học Đệ Thất 3 ở trường cũ đường Trần Hưng Đạo, tôi học ở trường mới, rồi khi hai lớp ở trường cũ chuyển về trường mới, chúng tôi cũng không học chung và không biết nhau.
           Tốt nghiệp Tú Tài 2, tôi lại tốt nghiệp trường trung cấp ngành viễn thông quân đội. Một thời gian dài sau đó, chúng tôi mỗi người đi một nơi, đầu năm 1996, tôi về Phan Thiết chơi, ghé Phú Hội dể thăm vợ chồng Nguyễn Văn Xít và Nguyễn Thị Duyên. Tôi không gặp Hồng Anh đã lâu, biết Duyên rất thân với Hồng Anh, tôi hỏi thăm tin tức của Hồng Anh thì được Duyên cho biết Ngọc Diệp mới gặp Hồng Anh ở Phan thiết. Hiện nay Hồng Anh là một ni sư Phật giáo. Duyên khuyên tôi nên trực tiếp gặp Ngọc Diệp để biết rõ hơn vì hai người học chung khóa Nữ hộ sinh quốc gia. Tôi xuống Bình Hưng ghé nhà gặp Ngọc Diệp. Nhiều năm xa cách hai người gặp nhau rất mừng. Tôi hỏi tin tức Hồng Anh thì Ngọc Diệp cũng nói như Duyên. Chúng tôi trao đổi nhau số điện thoại và và số nhà để tiện liên lạc.
Một tháng sau, tôi nhận được thư của Ngọc Diệp cho biết hiện nay Hồng Anh đang sống ở Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, nếu đi thăm cứ vào các gian hàng bán vải ở chợ Đồng Xoài hỏi Hồng Anh người Phan Thiết thì ai cũng biết.
         Mừng quá, nên một buổi sáng, từ Sài Gòn tôi đáp xe khách nhỏ, tài nhất đi Đồng xoài. Tới các tiệm vải trong chợ hỏi, thời may gặp ngay chủ sạp là bạn thân của Hồng Anh, cùng lúc đó con gái của Hồng Anh đi qua, chủ sạp gọi lại, nhờ đưa tôi đi gặp mẹ cô. Đến nơi, một tịnh thất bằng gạch nhỏ xinh, tôi gặp một Hồng Anh ni cô mặc áo nâu, đang tưới hoa trồng chung quanh tịnh thất của mình. Hồng Anh không nhận ra tôi vì hai người xa cách nhau đã 35 năm, tôi bây giờ đã thay đổi rất nhiều, nên tôi phải giới thiệu, bấy giờ Hồng Anh mới nhận ra tôi, nên rất mừng. Hồng Anh tu một mình trong tịnh thất này, trong tịnh thất trang hoàng trang nhã, bàn thờ Phật rất tôn nghiêm, tôi lạy Phật và chuyện trò với Hồng Anh suốt 2 giờ đồng hồ để ôn lại kỷ niệm thời học ở trường Phan Bội Châu. Ra về, tôi được Hồng Anh tặng cho một cuốn kinh Phật viết song ngữ Anh – Việt, tác giả là một vị thiền sư người nước ngoài.
       Quả thật trời không phụ lòng người, từ sài gòn về Đồng Xoài chỉ một lần tôi đã gặp được Hồng Anh, người bạn cũ rất thân. Về đến nhà, niềm thương nhớ bạn dâng tràn. Tôi thức suốt đêm đó viết cho Hồng Anh một bức thư dài 8 trang, ôn lại ký ức xưa, trong đó tôi không quên cám ơn Hồng Anh đã hướng dẫn tôi học và làm bài, từ đó làm bệ phóng cho tôi đậu Tú tài 2 để sau đó tốt nghiệp trung cấp Viễn thông, nhờ đó tôi được bình yên sống sót cho đến bây giờ, qua giai đoạn chiến tranh khốc liệt, tôi cũng mời Hồng Anh, nếu có dịp ghé thăm nhà tôi.
       Một tháng sau, tôi nhận được thư của Hồng Anh dài 6 trang, trong đó ghi nhận lại hồi ức thời áo trắng thật trân quí, cao thượng và ngọt ngào ờ trường Phan Bội Châu thân yêu. Hồng Anh khuyên tôi sống với chánh niệm hiện tại và nên gia nhập một đạo tràng để tu học làm hành trang tốt lành cho kiếp sau. Lá thư viết chữ rất đẹp, nên tôi photocopy nhiều bản, gởi cho Ngọc Diệp ở Phan Thiết, và gởi cho các con tôi, ai cũng khen ngợi chữ viết đẹp, lời văn nhiều tình cảm trong sáng và cao thượng.
        Tháng sau, trong lúc tôi đang tưới cây trong vườn nhãn, thì thấy từ xa hai ni cô đang tới gần, nhìn kỹ thì ra Hồng Anh và một ni cô nhiều tuổi, vợ chồng tôi vui mừng tiếp đón và mời dùng cơm chay. Tối lại, bên cạnh bình trà, đĩa bánh ngọt, tôi và Hồng Anh lại ôn lại chuyện cũ, hết chuyện này đến chuyện khác, đến khi nghe tiếng gà gáy canh tư mới chấm dứt đi nghỉ.
         Sáng hôm sau, hai ni cô từ giã gia đình tôi trở về Đồng xoài, người ở lại và người đi đều bịn rịn, chạnh lòng.
Tháng 9 / 2003, lúc tôi đi vắng về, em tôi cho biết có bạn Dương Tấn Quí tới thăm và hỏi thăm về Hồng Anh vì biết chỉ mình tôi biết nơi ở của cô bạn ấy, mặc dù Quí là anh họ Hồng Anh, nhưng vì từ khi xa xứ, Hồng Anh rất ít về quê cho nên không ai biết ở đâu để liên lạc.
          Một hôm, tôi từ Bà Rịa lên thăm con ở Sài gòn thì Quí gọi điện thoại rủ tôi cùng đi tới nhà Hồng Anh, tôi nhận lời, thì ngay lúc 18 giờ chiều hôm đó Quí chạy xe gắn máy tới nhà rủ tôi đi, bao nhiêu người đều ngăn cản bảo bây giờ gần tối rồi để mai hãy đi, nhưng tôi và Quí vẫn đi.
   Quí chạy xe rất tốt, chạy nhanh nhưng tay lái vẫn vững. Trời tối dần, rồi tối đen, bầu trời chỉ còn các vì sao lóng lánh, chúng tôi đi qua hàng chục cây số hai bên đường chỉ toàn cây cao su, không một bóng người, hai đứa sợ bị cướp xe, tôi nghe rõ tiếng Quí lẩm bẩm luôn trong miệng”án ma ni bát di hồng”.
       8 giờ tối, chúng tôi bình yên đến chợ Đồng Xoài, nhưng con đường vào nhà Hồng Anh nay đã khác trước, văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng tại đây, cảnh vật thay đổi rất nhiều, chúng tôi không tìm thấy nhà Hồng Anh nữa, vì vậy chúng tôi phải tìm phòng trọ nghỉ qua đêm. Bỗng Quí có ý kiến, Hồng Anh là ni cô, chúng ta tới các chùa hỏi hy vọng tìm ra nhà, trên đường tìm nhà trọ, chúng tôi thấy một ngôi chùa, nhưng vì đã khuya nên cổng chùa đóng, may thay có một nữ Phật tử đi xe gắn máy đi qua, thấy chúng tôi đứng xớ rớ trước cổng chùa, bèn dừng xe lại hỏi thăm. Tôi nói tôi là anh của sư cô Hương Quang (Pháp danh của Hồng Anh), tới nhà cũ thì đã dời đi rồi, không biết tìm ở đâu nên định vào chùa hỏi thăm, nhưng cổng chùa đã đóng. Một lần nữa chúng tôi lại gặp may vì người đó là người quen của Hồng Anh, nên đã đưa chúng tôi tới cửa tiệm của người con gái Hồng Anh, cô này nhận ra tôi vì lần trước tôi đã gặp cô tại tịnh thất của mẹ cô. Sau đó cô gái đã đưa chúng tôi về nhà mới của mẹ cô. Để dành sự ngạc nhiên cho Hồng Anh, tôi để Quí vào nhà trước, Hồng Anh ngỡ ngàng, không biết vì đâu Quí lại biết đến đây, mấy chục năm xa cách anh em hôm nay mới được trùng phùng, thật hạnh phúc. Anh em Quí nói chuyện chừng 10 phút, Quí ra ngoài dắt tôi vào, gặp tôi lần này Hồng Anh thắc mắc làm sao chúng tôi tìm được nhà mới này, chúng tôi bèn nói là do Trời Phật chứng giám cho lòng thành của chúng tôi quyết chí tìm cho được Hồng Anh.
     Sau khi con gái Hồng Anh dọn cơm cho chúng tôi ăn, trời đã khuya, Quí quá mệt do chạy xe trên trăm cây số, tinh thần lại căng thẳng, nên ăn xong là ngủ ngay trên võng đến sáng, còn tôi và Hồng Anh lại một đêm nữa thức trắng để hàn huyên, đến khi tiếng chuông chùa công phu sáng vang lên hai chúng tôi mới đi nghỉ lưng. Nghe tiếng ngáy của Quí, tôi nghĩ mông lung và thiếp đi lúc nào không hay. Sáng ra, sau khi ăn sáng, chúng tôi chia tay Hồng Anh về lại Sài Gòn, chúng tôi mỗi người được Hồng Anh tặng ba cuốn kinh Phật.
    Từ đó đến nay đã 12 năm trôi qua tôi không có dịp thăm lại Hồng Anh và không gặp lại Quí. Thời gian trôi qua nhanh như nước chảy qua cầu, Mới ngày nào chúng ta còn bỡ ngỡ bước chân vào mái trường Phan Bội Châu, vậy mà đã 60 năm trôi qua và nay chúng ta ai cũng”cổ lai hy“, các bạn người còn, người mất, người còn thì tóc đã bạc, sức khỏe đã kém, có bạn mắt đã mờ, tai đã phải nói to mới nghe rõ, chân đã chậm, nhưng với tôi, trời phú cho, chân tay vẫn mạnh khỏe, tai, mũi vẫn còn tỏ tường, mắt chưa cần đeo kiếng, tuy nhiên hoàn cảnh của tôi hơi đặc biệt vì thường xuyên ở nhà một mình giữa vườn cây trái vắng vẻ, láng giềng không ở gần bên và con cháu cũng đều ở xa. Bà xã vì thương con, thương cháu nên cũng thường đi thăm và ở với chúng nó, vì vậy bả ít khi có mặt ở nhà, nên mọi công việc ở nhà đều do một mình tôi đảm đương.
         Tôi có hai niềm vui, thứ nhất là đọc sách, thứ hai là được nói chuyện tán gẫu với bạn bè, nhưng vì tôi ở Bà rịa, miền quê vắng vẻ, các bạn thân học chung trường, chung lớp từ xưa không ai ở gần tôi cả, nên ngoài việc thường xuyên gọi điện thoại cho các bạn, thỉnh thoảng có dịp tôi lại ghé về Sài Gòn vui với các bạn một buổi, sở dĩ tôi nói các bạn là vì mỗi khi lên Sài Gòn tôi thường ngủ nghỉ ở nhà Điểu và khi tôi đến thì Điểu gọi điện thoại hẹn là nhiều bạn có mặt ăn uống vui chơi ở một nơi nào đó ngay.
    Tôi được biết đã nhiều năm cứ đến giao thừa là vợ chồng Chiêu thường đi xông (đạp) đất đầu năm nhà các bạn Son, có năm tới nhà Điểu, và nhà Nghệ. Ở nhà Nghệ các bạn vui vẻ chuyện trò, đánh bài”xì dách” đầu năm, mà mỗi người đàn ông làm cái 5 ván đến hết tua mới nghỉ, vì vậy có năm đến tận gần 3 giờ sáng, để xem hên xui thế nào, biết được việc đó nên đã 3 năm nay tôi đều tới nhà Điểu từ chiều 30 Tết, để đến khi giao thừa hai chúng tới ngay nhà Nghệ đón vợ chồng Chiêu, vợ chồng Son, và chúng tôi chúc tết lẫn nhau thật vui vẻ.
     Tôi lại được biết một điều nữa là cũng đã nhiều năm nay gia đình Cẩn có thông lệ, tối mùng 2 Tết mời họp mặt vợ chồng các bạn Tài, Thăng, Điểu, Chiêu, Son, Nghệ tại nhà ăn uống, chúc mừng nhau, bao nhiêu chuyện vui kể cho nhau nghe, Cẩn múa bút đầu năm, tặng chúng tôi những câu ”lời hay ý đẹp” viết theo lối thư pháp, vì vậy cũng từ 2 năm nay có thêm tôi. Thật hạnh phúc đối với tôi khi còn có sức khỏe để xum họp,vui vẻ với các bạn thân cùng khóa .                                                      
                                      Bao giờ cho đến ngày xưa
                                      Lúc mà con nhện chưa sa nỗi buồn
                                                               Tặng Thế Tân và Hồng Anh
                                                                                       
                                      ____________

           QUÀ TẶNG CỦA ĐỜI
                                                                                           Hoàng Công Bình

       Một buổi chiều cuối năm 2012, tôi có dịp ngồi nói chuyện với anh Đỗ Hồng Ngọc ở quán cà phê Bình Minh trên bờ biển Phan Thiết. Chiều đó chúng tôi đã tản mạng với nhau nhiều chuyện, chuyện bên Tàu, chuyện bên Tây, chuyện ngày xưa, chuyện bây giờ, nhưng thú vị nhất vẫn là chuyện học hành bầm dập của cả hai ngày còn nhỏ. Cả hai đều ở trong vùng kháng chiến. Bom đạn đã cày xới đến xác xơ nhà cửa ruộng vườn, kể cả trường lớp sách vở và chuyện học hành của chúng tôi.
       Năm 1954 hòa bình, ai cũng đã 14-15 tuổi mà chưa xong tiểu học. Rồi cưa sừng làm nghé, cặm cụi với sách đèn. Cùng được vào trường Phan Bội Châu (Anh Ngọc vào trước tôi hai năm). Rồi vào Đại học, người ít, người nhiều, ai cũng kiếm được năm ba chữ sống với đời.
      Trước khi chia tay, anh Ngọc tặng tôi một tác phẩm của anh”Thư gởi người bận rộn”và chu đáo lật giới thiệu ngay bài đầu”Chữ nhàn”Có lẽ anh cho tôi là người bận rộn, hay tôi đang tìm chữ nhàn. Dẫu sao cũng tốt cả, xin cảm ơn anh.
 Tôi đã đọc. Nghĩ về mình và thấy nhiều điều thú vị. Được anh Ngọc đồng ý, tôi xin giới thiệu đầy đủ lá thư này của anh:
 Chữ nhàn
Chữ nhàn là chữ làm sao! Nguyễn Công Trứ đã kêu lên như vậy, từ mấy trăm năm trước. Kêu chứ không phải hỏi. Bởi vì trước đó ông đã giải thích rõ ràng rồi”Thị tại môn tiền náo !Nguyệt lai môn hạ nhàn !”. Thế thôi ! Không biết ai là người đầu tiên đã nghĩ ra một định nghĩa đơn giản mà thâm thúy đến vậy qua cách víết chữ tượng hình của Trung Hoa giữa chữ môn mà có chữ thị thì thành náo, còn giữa chữ môn mà có chữ nguyệt thì thành nhàn. Thời buổi”thị trường”toàn cầu hóa như chúng ta đang sống hiện nay thì chợ ở tứ phía, ở ngay trong nhà cũng có chợ chen vào, cho nên không dễ mà tìm một chút ánh trăng qua cửa sổ! Ở các nước Âu Mỹ, workmania là một thứ bệnh”điên vì mê làm việc”đến nỗi tình trạng tâm thần, tự tử, tim mạch... ngày càng tăng. Ở Châu Á, bệnh karoshi chẳng hạn, một thứ bệnh do làm việc quá nhiều, quá sức, làm như điên, đến nỗi sinh nhiều biến chứng và gây cả tử vong như chúng ta từng nghe thấy ở một số doanh nhân Nhật và đang lan ra nhiều nước. Liên Hiệp Quốc đưa”quyền nhàn tản”vào trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền để khuyến khích người ta nghỉ ngơi mà chả ai thèm nghe! Nghe sao được, nhàn hay không là ở mỗi người chứ. Bắt người ta làm việc, cưỡng bức lao động thì dễ chớ ai nỡ bắt người ta nhàn, khi người ta muốn “bận rộn”!
 Thực ra nhàn cũng có nhiều cách: có cách nhàn nhã, có cách nhàn hùng hục. Nhàn nào cũng tốt, miễn là đừng quá. Nguyễn Công Trứ ưa kiểu nhàn “Gót tiên đeo đủng đỉnh một đôi dì/Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng. ”Một đôi dì đeo thì sợ khó mà đũng đỉnh, khó mà ngất ngưỡng. Rồi ông còn ganh tỵ với Tô Đông Pha, đời Tống, hơn ngàn năm trước :”Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất/Để ông Tô riêng một thú thanh tao!”Chẳng qua là ông Tô đi chơi thuyền trên sông, ngắm trăng với vài người bạn, đánh cờ, làm thơ xướng họa, dĩ nhiên cũng có vài... người mẫu đi theo mài mực, rót trà! Ta bây giờ thỉnh thoảng cũng đi thuyền rồng trên sông Hương, có đàn có sáo..., có tiếng ca tiếng hát náo nhiệt, thuyền ngược thuyền xuôi tấp nập đó thôi. Nhưng cái nhàn của ta là cái nhàn ồn, không phải là nhàn nhã! Sau một ngày vất vã, ”người bận rộn nào”cũng sẵn sàng xách vợt ra sân làm vài ván tennis. Cởi veston cà vạt ra, mặc áo pull quần short vào chạy ngược chạy xuôi hùng hục, toát mồ hôi hột, chẳng phải cũng là nhàn ư? Nhưng cái đó là nhàn... hùng hục. Nhàn nhã là phải có”nguyệt lai môn hạ”kia. Vì thế mà Trịnh Công Sơn mới có bài Nguyệt ca rất dễ thương:”Từ khi trăng là nguyệt cho tôi bóng mát thật là”. ”Thật là”sao thì anh không nói rõ nhưng anh chắc chắn có được sự nhàn nhã, chẳng thua gì ông Tô ngày xưa. Nhưng sau đó anh thực thà thú thiệt:”Từ khi trăng là nguyệt, tôi như từng cánh diều vui. Từ khi em là nguyệt, trong tôi có những mặt trời”. Thì ra cũng tại em thôi. Tại em là nguyệt mà trăng của tôi đã biến thành những mặt trời nóng bức, nhễ nhại, vất vả, bận rộn đó thôi. Lúc đó hẳn nhạc sĩ cũng đã kêu lên: Chữ nhàn là chữ làm sao!
                                                                          Hẹn thư sau.
                                                                                            Thân mến.
        Đây là lá thư đầu tiên trong 60 lá của tập”Thư gởi người bận rộn” của anh Đỗ Hồng Ngọc. (Nhà xuất bản VHNT Tp HCM, tái bản lần thứ nhất quý IV năm 2012).
       Chúng ta,những người đã về già, những người luật pháp cho mãn hạn lao động, những người đã kết thúc hợp đồng lao động với đời, những người nghỉ ngơi không cần xin phép ai.  Đời người. một cách rất tương đối, được chia làm bốn giai đoạn:
- Giai đoạn đầu đời từ lúc sinh ra đến hết tuổi mẫu giáo: Giai đoạn ăn chơi, (tuổi ăn chơi). Đi nhà trẻ, học mẫu giáo chủ yếu cũng chỉ ăn chơi
- Giai đoạn tiếp theo, từ 5 tuổi đến dưới 25 tuổi: Giai đoạn học tập (tuổi học, tuổi gắn với nhà trường)
- Giai đoạn chính của đời người, dài nhất: Từ 25 đến 55 tuổi dành cho nữ giới, đến 60 tuổi dành cho nam giới: Giai đoạn làm việc. (tuổi lao động).
- Giai đoạn cuối đời, sau tuổi lao động là tuổi nghỉ ngơi.
 Dĩ nhiên chung nhất là vậy, rất tương đối, bởi có những cháu bé mới 9-10 tuổi đã phải lao động cật lực, không chỉ để kiếm sống cho mình mà còn phải giúp đỡ gia đình. Có người từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, suốt đời chỉ biết ăn chơi. Có người, thất thập cổ lai hy rồi vẫn chăm chỉ hàng ngày cắp sách đến trường. Tối đến còn chong đèn học bài, làm bài, cần mẫn hơn một học sinh tuổi chín mười. Vậy mới là đời! Nhưng dẫu sao, bình thường theo cách chia đời như vậy cũng khá hợp lý. Tôi về hưu năm 2003, từ đó đến nay, tôi luôn tìm mọi cách để được bận rộn theo kiểu ham vui của mình. Tôi nhất quyết không chịu”về hưu là chết lâm sàn”. Tôi thường đi sớm, về muộn, có lúc không kịp ăn sáng, có lúc bắt cả nhà phải đợi cơm trưa, cơm chiều. Vợ con hỏi, tôi chỉ có một câu trả lời duy nhất, ”bận việc!”. Cả nhà tin là tôi bận việc thực- Tội nghiệp!
 Cái mà tôi là “việc”để được bận rộn chỉ là:
 Khi thì đến thăm một bạn già trái gió trở trời nhức đầu sổ mũi, đến hỏi han đôi điều, chưa kịp biết bệnh gì, bệnh từ bao giờ, đã mầy, đã tao…chúng tôi đã rơi vào thế giới tuổi thơ lúc nào không biết. Say sưa với những chuyện đã say sưa nhiều lần. Những chuyện nghe rồi, đã nghe rồi nhưng nói mãi vẫn muốn nghe.
        Khi thì một đồng nghiệp nhập viện, tức tốc đến thăm, chỉ kịp mang theo một nụ cười làm quà thăm bệnh và chỉ cần nhếch mép thôi, cũng đủ làm dịu cơn đau thể xác của tuổi già. La cà mãi, đến khi y tá bảo”hết giờ thăm bệnh rồi ngoại”, mới chịu ra về.
       Khi con của một học sinh cũ học hành chểnh mẳng hoặc bỏ học, lại tìm đến nhà, xoa đầu, kể cho cháu nghe những chuyện có liên quan đến học hành
     Chuyện ngày xưa bên Tây: Có cậu học trò con nhà giàu nhưng lười biếng lại muốn mau chóng trở thành nhà thông thái. Một hôm đến nhờ thầy giúp. Thầy dẫn cậu ra biển, rồi dìm đầu cậu xuống nước, cho đến lúc biết sắp chết, thầy mới buông tay ra, rồi lên bờ ngồi đợi. Cậu hằn học đến trách móc
- Sao thầy định giết tôi?
- Lúc sắp chết, cậu muốn gì?
- Muốn thở!
- Vậy muốn trở thành nhà thông thái, cậu phải muốn học, như cậu muốn thở lúc sắp chết.
      Nghe lời thầy, từ đó cậu học trò lười biếng trước đây đã chăm chỉ học tập, không chắc đã trở thành nhà thông thái, nhưng chắc đã trở thành người tử tế! Cũng chuyện ngày xưa bên ta, có Trần Minh khố chuối, bắt đom đóm lấy ánh sáng học bài, thế mà thành đạt hơn người.  Chuyện ngày nay bên ta: Có nhiều học sinh, con nhà nghèo, ở Động Đền, Hàm Tân, nhà cách trường hơn mười cây số. Sáng đi học thực sớm, gánh theo một gánh cũi nặng, đến bán ở chợ La Gi, ăn sáng qua loa vài củ khoai, trái bắp,vào trường học, trưa lại ra chợ mua gạo, mua mắm muôi về cho gia đình. Ở nhà vừa tắm heo vừa học bài, ngồi nấu ăn thì làm bài trên nền cát. Cuối năm tốt nghiệp loại giỏi, trúng tuyển vào các trường đại học danh giá.
      Gương vượt khó, vượt khổ để học giỏi, ngày nay không ít. Nhưng có lẽ cũng cần phải nêu lên, gương của những học sinh biết vượt qua sự giàu sang sung túc của mình để học tập. Một hiện tượng xã hội rất đáng lo hiện nay, nhiều học sinh, con nhà khá giả, điều kiện học tập không thiếu gì, lại được chăm sóc quá đáng, làm cho các em mất hoặc hạn chế khả năng tự chủ bản thân. Như gà công nghiệp, cho ăn gì, ăn đó, quên bươi móc tìm thức ăn, nguy hiểm hơn quên cả việc ấp trứng, một khâu quan trọng trong việc duy trì nòi giống.
       Trước khi ra về, tôi không quên xoa đầu và nói nhỏ:”Cháu nhớ chăm học đừng để ba mẹ cháu buồn”. Vài hôm sau, nếu nghe cháu chăm chỉ học tập, thì vui, nếu vẫn như trước thì lại đến nhà lần nữa có khi nhiều lần nữa. Không sao, người bận rộn mà. Có niềm vui nho nhỏ, làm tôi bận suốt năm trời, chuyện là nhà tôi có cháu giúp việc người Chăm độ 16, 17 tuổi, cháu hay nhờ tôi đọc giúp tin nhắn trong điện thoại, sau 5, 3 lần tôi phát hiện cháu không biết chữ, thế là có việc để tôi bận rộn rồi. Sắp xếp công việc nhà cho cháu, sao cho có thời gian để cháu học chữ. Tôi dạy cháu theo sách Tiếng Việt lớp 1, lúc đầu hơi khó khăn, ngay cách phát âm của cháu cũng không chuẩn, thế mà nay, cháu không phải nhờ ai đọc giúp tin nhắn trong điện thoại nữa. Tôi thích thú khi nghe cháu sung sướng đọc “Trên trời mây trắng như bông …”. Và cũng thế là con đường vui nho nhỏ vẫn còn dài, khi cháu biết: Năm cộng ba bằng tám, biết hai nhân hai bằng bốn, biết ba mũ hai bằng chín…
         Tôi thường lui tới trường, do muốn vậy thôi. Những người cả đời hút thuốt lá, dẫu có bỏ, cũng nhớ mùi khói hương của thuốc và cách phì phèo của chính mình. Tôi tới trường không hẳn chỉ nhớ trường, đôi lúc nhớ chính mình nhiều hơn. Lang thang trong sân trường, cố tình tìm mảnh giấy vụn, chiếc lá khô hay bịch sữa đã uống vất đâu đó, rồi giã vờ vô tình nhặt lên bỏ vào thùng rác, thực lòng tôi muốn nhiều học sinh thấy điều đó, để biết đâu là một ví dụ sinh động, điều các em đã học trong sách vở, được thảo luận trong các buổi sinh hoạt về giử gìn vệ sinh, về bảo vệ môi trường. Thấy cây cảnh, chậu hoa vàng lá, cũng vô tình nói với người chăm sóc hình như chúng thiếu nước, thiếu phân, bâng quơ, nhẹ nhàng như mây gió, bàng bạc như ánh trăng hạ tuần.
         Ở nhà, các cháu tôi, nội có ngoại có, có cả bạn bè của chúng, thậm chí đôi khi có cả cháu con nhà hàng xóm, chúng đến nhờ tôi khi thì giãng một phần giáo khoa, khi thì giải một bài tập. Tôi luôn vui vẻ nhận lời và tận tình với sự”bận rộn”quý báu này. Hồi còn trên bục giãng, trước khi làm những việc tương tự thế này, tôi phải chong đèn, tìm cho được mục đích yêu cầu, xác định cho được trọng tâm, trọng điểm, phải lồng vào việc gắn với thực tế lao động, thực tế cuộc sống, giáo dục tư tưởng, giáo dục đạo đức. Phải lập hệ thống câu hỏi kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, lập phương án”tác chiến”, phải có phương án chính, phương án phụ, đối phó với những tình huống khác nhau. Cuối bài giảng, phải có đúc kết và dặn dò. Với tinh thần giáo dục toàn diện, người thấy phải làm bao nhiêu việc như vậy. Nhưng qua mắt thanh tra, ít khi không nhận được lời phê”giáo án sơ sài”.
 Nay, tôi dạy theo yêu cầu, dạy theo đơn đặt hàng. Hỏi cái gì, tôi chỉ cái đó, công việc trở nên nhẹ nhàng. Không phải đảm bảo tính toàn diện, mà chỉ một diện thôi, đó là kiến thức nếu được hỏi giáo khoa, đó là kỷ năng nếu được nhờ giải bài tập. Hình như cái”cần”thôi thúc mạnh hơn cái”phải”, nên các cháu thường hay mỉm cười, trước khi nói cảm ơn ông!
     Vậy nhàn nhã hay bận rộn, phải xuất hiện thế nào đây trong cuộc sống của mỗi con người? Như lời ca dễ thương của Trịnh Công Sơn mà anh Ngọc đã dẫn: Từ khi em là nguyệt trong tôi có những mặt trời
     Đừng để mặt trời, mặt trăng, hai thiên thể đó ở hai cực của sự mâu thuẩn. Chúng phải hòa vào đời tạo ra những điều kỳ diệu. Thực tế “Trên hai vai ta đôi vừng nhật nguyệt rọi suốt trăm năm một cõi đi về”nên cũng đừng để cho nhàn nhã và bận rộn thành hai trạng thái không cùng tồn tại trong cuộc sống của mỗi người.
      Thôi thì xin đời cho một chút bận rộn, vì chính trong cái bận rộn đó lại tìm thấy chữ nhàn. Chợ và trăng cùng trong một khung cửa có sao đâu. Bận rộn hay nhàn nhã cũng đều là quà tặng của đời.
     
             
------------------------------------------------------------------------------------------

   Nếu Biết Rằng Em Đã Lấy chồng

                                                  Mai Trung Trực (Sưu Tầm)



                              Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
                              Trời ơi! Người ấy có buồn không?
                              Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
                              Tựa trái tim phai, tựa máu hồng!
                                                                   (“Hai Sắc Hoa Ti-Gôn”của T. T. KH)


 

   Khi người yêu của Nguyễn Bính đi lấy chồng thì nhà thơ phản ứng một cách nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như những vần thơ trữ tình của ông:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Tôi về lấy vợ thế là xong.
Vợ tôi không đẹp bằng em mấy,
Nhưng đẹp hơn em cả tấm lòng.
Còn nếu người yêu của một thi sĩ đi lấy chồng thì:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh đau, anh khổ suốt ngàn đông.
Anh về tập làm thơ tình ái,
Để cho khổ đau khỏi chất chồng.

Nếu người yêu của chàng trai “Bắc Kỳ” phụ bạc đi lấy chồng:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về chửi đổng giữa đám đông.
Mẹ bố tiên sư nguyên dòng họ,
Bạc phụ! Sao mày dám bỏ ông?

Nếu người yêu của chàng trai “Trung Kỳ” đi lấy chồng:
Nếu biết rằng O nợ đã lấy chồng,
Anh về Hương Giang nhảy xuống sông.
Sông sâu, nước mát anh tỉnh mộng,
Tự tử như rứa răng mà xong?
Còn nếu người yêu của chàng trai “Nam Kỳ” đi lấy chồng:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Mèn ơi! Em chê tui nhà nông.
Nổi nóng, ruộng nương tui đốt hết,
Không gạo, cho em đói nức lòng.
Nếu người yêu của anh “Ba Tàu Chợ Lớn” đi lấy chồng:
Nếu “piết” rằng nị đã lấy chồng,
Ngộ dzề “pán” nốt cái Hồng Kông.
Mang tiền đầu tư vào Chợ Lớn,
Lời quá trời, nị tức cành hông.
Nếu người yêu của dân học trường Tây sang sông:
Nếu biết rằng “toi” đã lấy chồng,
Ca-va “moi” vẫn tỉnh như không.
Bạn gái secours ”moi” cả đống,
Buồn chi cho khổ, n' est ce pas?
Còn người yêu của chàng “Việt Kiều” phụ tình thì:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về bên bển thế là xong.
Trăm cô ngồi đó cho anh lựa,
Họ “mướt” hơn em, em biết không?
Và người yêu của chàng trai Mỹ gốc “Mít” ôm cầm sang thuyền khác thì:
Nếu biết rằng “you” đã lấy chồng,
“Me” lấy Đầm Mỹ thế là xong.
Âu yếm, OK bằng tiếng Mỹ,
“Trả thù dân tộc”, ”you”thấy không?
Nếu người yêu của chàng du đãng phụ tình:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Đừng tưởng như thế đã là xong.
Anh về trang bị dao với búa,
Đánh cho một trận mới hả lòng.
Nếu người yêu của chàng kiếm sĩ phụ bạc thì:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về luyện kiếm cho tinh thông.
Kiếm anh sắc bén hơn em tưởng,
Sẽ dzớt chồng em trả hận lòng.
Nếu người yêu của khoa học gia phụ tình:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Pha chế đồ nghề, chẳng ngồi không.
Đứng trước nhà em anh la lớn:
“Tui tạt acid chớ đừng hòng”.
Nếu người yêu của anh chàng “Sở Khanh” sắp sửa đi lấy chồng:
Nếu biết rằng em sắp lấy chồng,
Anh vớt em một bụng cho xong.
Chơi trò đểu cáng thì không lỗ,
Em chẳng bỏ anh, anh cũng dông.
Nếu người yêu của chàng trai có tư tưởng “trồng người” đi lấy chồng thì:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về cưới vợ trỏ núi sông:
“Mai nầy khi có con trai lớn,
Xúi “đớp” con em rửa hận lòng!”
Còn nếu người yêu của chàng trai có lòng ích kỷ đi lấy chồng:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Xây đền, lập miếu cúng hồn vong.
Nguyện cầu thập phương, tam thế cõi,
Van vái cho em sớm góa chồng.

Nếu người yêu của chàng trai thời loạn phụ bạc:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về đăng lính cứu non sông.
Phá giặc, công thành anh trở lại,
Hiểu lòng chiến sĩ, em buồn không?

Hay khi biết người yêu đã lấy chồng thì:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về, anh thiến thả trôi sông,
“Của quý” lềnh bềnh trên dòng nước,
Em đứng nhìn theo có tiếc không?

Hoặc:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về tự tử chết cho xong.
Mộ anh cỏ dại vàng xơ xác
Khi viếng thì em hiểu nỗi lòng!

Nếu người yêu của những ”Đệ tửLưu Linh”đi lấy chồng”:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về bắt vịt nhổ sạch lông,
Tiết canh làm đại vài ba đĩa.
Mượn rượu cho nguôi vết thương lòng.
Hay là:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Ta về làm bạn với sầu đông.
Cay đắng chôn vùi trong bầu rượu,
Ngao ngán nhìn nhân thế long đong.

Nếu người yêu của những chàng trai mang tâm hồn lãng mạn đi lấy chồng:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh men suối vắng kiếm chùm bông.
Kết bó hoa tươi làm kỷ niệm,
Len lén tặng em lúc vắng chồng.
Hoặc:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh lang thang nhặt lá diêu bông.
Ướp lá vào trang sách lưu niệm,
Tình anh mãi mãi vẫn một lòng.
Và:
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về trên lối cũ rêu phong. Em đi băng giá vùi phiến mộng,
Trông dải Ngân Hà mà nhớ mong.

Nếu người yêu phụ bạc đi lấy chồng, chàng tự dối lòng nhưng...
Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Lòng thề không nhớ kẻ sang sông.
Nhung rồi lối mòn trong tim nhỏ,
Vẫn tìm ngỏ ngách để ngóng trông.

Nếu người đẹp của chàng trai thời đại văn minh điện tử đi lấy chồng:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về tưởng tượng đại là không.
E-mail cứ viết, phone cứ gọi,
Sẽ có ngày em ly dị chồng.

Còn nếu người yêu của chàng trai cuốn gói sang ngang nhưng chàng”bất cần”:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về thay gối lẫn chăn bông,
Phủi sạch hương xưa, vùi kỷ niệm,
Chẳng vấn, chẳng vương, chẳng nặng lòng.

Hoặc là:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh mừng lắm lắm, em biết không?
Ba năm yêu em, ba năm mệt,
Tình gì cứ khổ mấy năm ròng.

Và:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về giặt nệm, trải chăn bông.
Sửa lại song thưa, rèm buông lỏng,
Đêm đêm mở tiệc tuyển bóng hồng.

Nếu người yêu của chàng trai đi lấy chồng, chàng tẩy trần bằng cách:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về tắm gội với xà-bông.
Tình yêu ngày cũ bay đi mất,
Để kẻ sang sông khỏi chạnh lòng.

Nếu người con gái “tham phú, phụ bần”, bỏ chàng trai đi lấy chồng giàu sang:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về tâu với Tôn Ngộ Không.
Rằng em ích kỷ tham giàu có,
Mà bỏ mặc anh sầu nỗi lòng.

Và khi người con gái phụ tình, sang ngang chàng trai thở than:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Sao ta còn thấp thoáng niềm mong.
Lần chót gặp ta em khóc lóc,
Thề rằng không lỗi hẹn tình nồng.

Còn”đời vắng em rồi... ”thì:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh về, anh cắt phứt cho xong.
Cuộc đời nầy chẳng còn em nữa,
Thì có làm chi cũng như không!

Nếu người yêu của một sinh đồ đi lấy chồng:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Anh thề kinh sử nấu cho xong.
Mai nầy danh rạng, tên đề bảng,
Lỡ làng, em tiếc đã sang sông.

Nếu người yêu của chàng trai đê tử nhà Phật đi lấy chồng:

Nếu biết rằng em đã lấy chồng,
Hữu duyên, vô phận thế là xong.
Trăm năm biết có còn thương mãi?
Năm uẫn, sáu trần cũng là 'không”.

 ______________________________________________________________              THƠ                              

              Chiều hè trên sân trường

            Gió nhẹ qua khóm trúc
           Tìm giếng nước ngày xưa
           Ve sầu nhìn phượng nở
           Tơ trời bồng bênh  bay

                        Mái ngói úa rêu phong
                        Khung cửa xanh màu lúa
                        Rủ nhau về đâu đó
                        Sân trường rộng mênh mông

                                            Ta lặng nghe tiếng hát
                                            Từ xa xôi vọng về
                                            Trong giọt vàng mờ ảo
                                            Ta thấy ta bùi ngùi.

                                                                 Hoàng Công Bình  


________________________________________________________________


                 HỌP MẶT CHIỀU MỒNG BỐN TẾT HÀNG NĂM 

       


 
          Trước năm 1992, bạn bè chúng ta thỉnh thoảng cũng gặp nhau chuyện trò, đôi khi cũng đến nhà thăm viếng nhau, nhưng đều tự phát và có tính riêng lẻ.
    Khi trường quan tâm đến tìm hiểu về quá khứ, việc đầu tiên tổ chức gặp mặt các cựu Hiệu Trưởng của trường, sau đó tổ chức đoàn vào thành phố Hồ Chí Minh, thăm các thầy trước dạy tại trường và mời về thăm trường. Nhân các thầy về, có dịp chúng ta đến thăm, gặp nhau,có lúc mời cơm các thầy, có cả chúng ta, thường tổ chức tại nhà chị Bê.Lúc có đông anh em, mới nẩy sinh ý tưởng tổ chức gặp mặt hằng năm. Khởi đầu tổ chức tại nhà riêng, ai tự nguyện đăng ký,thì đến nhà người đó.Cách này kéo dài được chín mười năm, cũng chiều Mồng Bốn Tết.Vì có một số bất tiện, nên tất cả thống nhất tổ chức tại khách sạn.
          Rất vui  vì  Buổi họp mặt Chiều Mồng Bốn Tết  hàng năm được duy trì mãi cho đến hôm nay: Buổi họp mặt chiều Mồng Bốn Tết  Bính Thân
        Xin trích đăng lại bài thơ “Ngẫu hứng” mà tập thể bạn bè trong Buổi họp mặt chiều Mồng Bốn Tết Mậu Tý ( 2008 ) cùng làm. Bài thơ có bốn câu: câu 1- 2 của Võ Hữu Tuyết, câu 3 của Hồ Bang. Câu 4 của nhiều tác giả.

            Vui biết mấy mỗi lần gặp lại
           Bạn bè xưa quá đỗi yêu thương
          Ngỡ rằng đây ngưỡng cửa thiên đường
       * Ta xả hết chuyện vui buồn trần thế ( Hồ Bang)
       * Ta thả hết chuyện vui buồn trần thế (Hoàng Công Bình)
       * Ta nhớ lại chuyện vui buồn trần thế (Phạm Gia Cẩn)
       * Ta tém hết chuyện vui buồn trần thế (Huỳnh-Ngọc-Phẩm)                
                                                                         
                                                                                        Hoàng Công Bình
         

_______________________________________________________________


                            HOÀI CẢM CUỐI NĂM
                                                                                        Nguyễn Đình Thăng

         
 Tết đang đến rất gần. Những ngày này đường phố trở nên chật chội với khối người đông đảo hối hả ngược xuôi suốt từ sáng sớm cho đến tối khuya. Dường như ai cũng tranh thủ thời gian cố hoàn tất những công việc còn lại của năm cũ để nhẹ lòng khi bước vào năm  mới .
        Hòa chung không khí hối hả rộn ràng đó, tiệm may áo dài của con gái tôi cũng rất đông khách.Con bé tươi cười vồn vã đón khách đến ,chào khách đi. Nhìn con say mê với công việc, hình ảnh người mẹ thân yêu của tôi bỗng chập chờn hiện ra trong tâm trí .
      Trước đây khi mẹ còn sống , hàng năm cứ từ đầu tháng 10 âm lịch đổ đi ,cả nhà lại xúm nhau phụ mẹ kết nút áo cho kịp kỳ hẹn trả . Nhiều người khen mẹ cắt khéo,ôm người lại may kỹ. Từng xấp vải lụa, dù là hàng nội hay ngoại , một khi đã qua tay mẹ đều biến thành những chiếc áo dài duyên dáng làm hài lòng khách,  ngay cả những người khó tính .
        Tôi nhớ lại năm đầu khi gia đình mới từ Phan Thiết chuyển vào Sài Gòn , bố tôi đứng tên môn bài xin mở tiệm may âu phục chứ không phải may áo dài như bây giờ . Tiệm mở ra trên  nửa năm trời rồi nhưng vẫn thưa khách khiến bố đâm chán nghề . Nguyên nhân nào đây ? Do địa điểm không thuận lợi hoặc bố chưa gặp thời ? Tôi lan man suy đoán thế vì hồi ở Phan Thiết , tiệm của bố cũng vào loại đông khách. Thấy nghề không nuôi nổi vợ con , bản thân lại không thích sống gò bó, chật chội trong những ngôi nhà thành phố bít bùng không một tấc đất làm sân , bố sinh ra bực dọc, cáu kỉnh . Trước kia vốn không nghiện rượu nhưng bây giờ ông hay sang lối xóm nhâm nhi đến say khướt mới về .Ba năm sau , thảm họa xảy đến với gia đình tôi khi bố qua đời sau một cơn bạo bệnh .Ông để lại cho mẹ gánh nặng phải nuôi bẩy đứa con ăn học mà đứa bé nhất chưa đầy ba tuổi .
        Không biết nhờ trời thương hay do "cái khó ló cái khôn", mẹ tôi sau nhiều đêm trăn trở đã đem hết tư trang dành dụm bán đi lấy tiền nuôi con chứ không bán đi dàn máy may của bố để lại . Sau đó mẹ dùng hết thời gian có được để đi học may áo dài .
      Đó là một quyết định sáng suốt và kịp thời.Nhờ có quyết tâm cùng lòng kiên nhẫn , học may áo dài xong mẹ đứng tên mở cửa hàng may trở lại. Tiệm mở ra ban đầu chỉ rất khiêm tốn với tấm bảng bảng nhỏ ghi dòng chữ : “ Nhận may áo dài “.Rồi từng ngày, từng tháng, tay nghề mẹ vững vàng thêm .Khách lui tới ngày một nhiều,không phải chỉ là những người trong khu phố như trước nữa.
         Năm tháng dần trôi ,mẹ tôi đường hoàng lên bảng hiệu như một người may áo dài chuyên nghiệp .Chưa đầy năm năm ,mẹ tôi đã gầy dựng được một tiệm may khá bề thế với cả chục cô thợ may được mướn thêm .Mỗi khi bước vào ngôi nhà mới khang trang nhiều tiện nghi do một bàn tay mẹ xây dựng lại ,tôi không khỏi bồi hồi xúc động và rất đỗi tự hào. Trước đây dù nằm mơ, tôi cũng không dám nghĩ đến .
         Khi các em tôi ra riêng hết thì mẹ tôi đã già .Bà chỉ đứng tên trên giấy tờ, còn mọi chuyện đều do tay vợ tôi lo liệu . Nàng kế tục điều hành tiệm may khá vững vàng không thua kém mẹ chồng chút nào.Tiệm may đang trên đà phát triển thì chế độ Sài Gòn xụp đổ.Đất nước sang trang.Cuộc sống mới vô vàn gian khó.Thời kỳ đó ,ai cũng nghĩ nghề may áo dài sẽ mai một vì chiếc áo dài truyền thống bao lâu giúp người con gái Việt có nét đẹp duyên dáng bỗng trở thành thứ y phục mang tính “tiểu tư sản “, không thích hợp với thời đại “lao động là vẻ vang” đang được đề cao lúc bấy giờ.
        Vợ tôi dẹp tiệm chuyển sang bán tạp hóa sống qua ngày. Nàng buồn lắm, những tưởng sẽ mãi mãi xa rời việc may áo dài ,cái nghề truyền thống của gia đình . Mẹ tôi cũng buồn không kém nhưng không than thở ,bà chỉ ngồi im lặng đưa ánh mắt mông lung hướng về bàn thờ bố .Và …một ngày cuối năm khi tiết trời đột chuyển lạnh mẹ  đã ra đi .Trước khi mất, bà dặn dò vợ tôi phải cố gắng duy trì nghề may áo dài nếu sau này hoàn cảnh cho phép .
        May thay, giai đoạn đất nước khó khăn rồi cũng qua đi. Đời sống người dân sau những năm chật vật bươn trải đã tốt đẹp lên .Đất nước chuyển sang thời kỳ đổi mới. Theo quy luật tự nhiên, nhu cầu ăn ngon mặc đẹp vẫn là việc đầu tiên con người nghĩ đến khi cuộc sống khấm khá. Nhưng phải mất thêm vài năm , nghề may áo dài mới được hồi sinh .Số người mặc áo dài tăng dần lên. Ban đầu chỉ là các nữ giáo viên và nữ sinh các trường trung học. Dần dà ,những tà áo dài xuất hiện ngày nhiều lên trên đường phố ,trong đám cưới, lễ hội,các cuộc họp mặt và không thể thiếu trong các cuộc thi hoa hậu Việt Nam …
     
   Những năm gần đây ,áo dài thực sự trở lại vị trí ngày xưa ,là nét đẹp văn hóa truyền thống gói trọn tinh thần của người con gái Việt: e ấp, tinh tế và quyến rũ.Chỉ có một điểm khác là khi áo dài sống lại thì nó được tôn vinh như một biểu trưng mang đậm bản sắc phụ nữ Việt Nam và được nhiều du khách nước ngoài ngưỡng mộ .Không ít người đã đặt may một hai chiếc áo dài mang về nước làm quà tặng người thân .Tiệm may áo dài của vợ tôi hồi sinh như một phép lạ . Phần do khách quen còn nhớ tìm đến , phần cũng do áo dài may đẹp và giá may phải chăng nên thu hút khách kéo đến ngày một đông hơn.Việc làm ăn phát đạt khiến vợ tôi vui hẳn lên , tưởng như được sống lại thời vàng son thuở trước .
        Bây giờ vợ chồng tôi đã già ,đứa con gái lớn tiếp nối vai trò của bà nội năm xưa. Vợ tôi vào ra phụ giúp con điều hành tiệm may như mẹ tôi lúc trước từng làm với nàng. Các cháu gái tôi lại đính những nút bấm, nút nhựa nhiều màu sắc trên các áo dài do mẹ chúng may. Hôm nay tiết trời se lạnh ,không khí tết đang tràn ngập thành phố. Nhìn các cô thiếu nữ thướt tha tà áo dài ra vào cửa hàng, bất giác tôi nghĩ đến mẹ . Nỗi nhớ da diết ùa về mênh mang sâu thẳm...

                                                              ______________


     CHÙM ẢNH THĂM VIẾNG 
                               THẦY CÔ - BẠN BÈ 








































                                                          ___________


      CHUYỆN NHỎ THÔI KHÔNG SAO ĐÂU !
                                                                         Mai Trung Trực ( Sưu tầm )

   
   Tại một quán ăn ở Thượng Hải, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non. Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rớt xuống, rơi xuống chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng tôi nhảy dựng lên, nộ khí xung lên, khuôn mặt trở nên sầm xuống. Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì, con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói:”chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”.
       Nữ hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp da của tôi, nói với giọng lúng túng:”Tôi… để tôi đi lấy khăn lau …”. Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói:”Không sao, mang về nhà rửa là sạch rồi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu, không cần phải  đặt nặng trong tâm đâu ạ. ”
       Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn. Hình như đó cũng là câu nói mà con gái tôi bình tĩnh nói với tôi. Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ. Dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.
       Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, khi hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự: Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm. Để huấn luyện tính tự lập cho nó, tôi và chồng không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, chúng tôi muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.
          Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn, khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước, những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống. Ngày đầu tiên ,nó đã gặp phải rắc rối. Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh. Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu.Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng”liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.
       “Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục. ”giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng. “Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: Em gái, em không sao chứ?”. Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé! Đối với con, ngay đến cả một chữ nửa câu trách móc cũng không có!”
        Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ. Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con:”không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt. ” Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên. Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm:”Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”
                                                  ----------------------


      NGÀY ẤY… VÀ  BÂY GIỜ …
   
                                 THƯƠNG NHỚ BÙI XOÀI
                                                                                Lê Trọng Yêm -  Gia  Lai
     
         Có lúc nào,những người thành đạt, đang đối diện với trăm mối đa đoan của sự nghiệp, dành vài phút rảnh rang, để tưởng nhớ lại,những ngôi trường của tuổi thơ, của thuở hàn vi, cai “nôi ” đầu đời, khi mà tương lai còn là một ẩn số?
    Có những người không được may mắn như Tổng Thống Sadi Carnot  (1837 - 1894 ) năm 1887 còn được ôm hôn thầy giáo của thời thơ ấu, hay như Tổng Thống Georges Pompidou (1911-1974 ) năm 1969 còn được hội kiến với cô giáo làng của năm chục năm về trước,mà lại bất hạnh như   thầy Tử Lộ, khi thành đạt các người thân đã khuất núi cả rồi.
( trích Giác Ngộ số 151-10-2008 của GS-TS Nguyễn Chung Tú ).
        Vâng! Cái ngày ấy thầy cô giáo dạy học trò cho đến hơi tở cuối cùng,chứ không như bây giờ có chế độ nghỉ hưu… nên không gắn bó suốt đời với nghề giáo, cho nên, nghĩ lại mình vẫn thấy thương thương cho kiếp tằm nhả tơ của các thầy cô giáo cũ thời trước và xa xưa.
       Mình nhớ đến thầy Huân của trường tư thục Bồ Đề già nua lọm khọm, thầy Lê Tá Hiệu Trưởng trường Trung Học Phan Bội Châu, mà sau này mình được tuyển vào năm Đệ ngũ từ trường tư thục Bồ Đề cùng với mấy người bạn học: Lê Bá Thoại, Trần Văn Soái, Nguyễn Mạnh Hùng, Bùi Xoài…. Hoặc năm Đệ Tam về trường tư thục Tiến Đức, có các thầy Lê Choi, Khôi Anh và Hiệu Trưởng thầy Đặng Vũ Tiễn đều là những thầy đã già.
      Mình không được may mắn học từ năm Đệ Thất như các bạn , tuy nhiên với Nguyễn Gia, Nguyễn Văn Hiệp và mình kết hợp thành bộ ba nghịch ngợm phá phách nhất trường, mặc dầu mình vẫn là học sinh giỏi của lớp, sau này khi lên lớp Đệ Tứ là lớp trưởng, vẫn chứng nào tật nấy, kèm thêm nữ quái Dương Thị Kim Mỹ mới thực vui.
      Không biết lúc nào khi thầy Thành từ Sài Gòn chuyển về mình lại gọi thầy là “ Ót Lát” để không nhầm với thầy Thành (lùn), bây giờ nghĩ lại thấy làm sao ấy! Thực có lỗi với các thầy.
      Mình nhớ được dự trại hè Bạch Mã (Huế), được thầy Vĩnh Diên hướng dẫn, hết kỳ trại Thầy đưa cả đoàn về Huế. Thầy quê ở Truồi, khi ngang qua Truồi, thầy chỉ đây quê mình. Cả đoàn được Thầy đưa đi thăm danh lam thắng cảnh ở Huế, riêng mình có bà con ở đường Trần Hưng Đạo gần chợ Đông Ba, nên xin phép về nhà.
    Mình nhớ và buồn nhất là ngày Đặng Hùng mất do bị phong đòn gánh trong một trận đá banh  từ giả bạn bè để đi học ở Bảo Lộc (Đà Lạt), cả khóa mình đưa bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng bên kia đồi Phú Hài. Trần Thành Bang mất mình không thắp được nén hương. Một số người nữa lần lượt ra đi: Trần Văn Sói, Phan Ngọc Toản, Lương Cảnh Hùng…và mới đây là Bùi Xoài.
    Nhờ Bùi Xoài mà mình biết ngày họp lớp. Lần đầu tiên mình về dự năm 2010, gặp lại bạn bè mình vui ghê. Tưởng không còn cơ hội gặp nhau những ngày xế bóng.
    Năm 2015,đặc biệt hơn, phải nói đến Lê Quang Chiêu, có công nhiều nhất đi quay phim từ Bắc Bình Thuận, rồi đến Nam Bình Thuận, cả Bà Rịa Vũng Tàu TP Hồ Chí Minh, nhờ vậy mà mình thấy mặt được nhiều bạn bè, biết được thêm nhiều điều, ví như Đặng Hữu Niên (Phan lý Chàm) có bốn con đều là bác sỹ, khâm phục và bái phục gia đình bạn Niên.
    Tốn công, tốn của làm xong đĩa DVD gởi tận nơi cho bạn bè, một tấm lòng quý hiếm, không phải ai cũng làm được. Cảm ơn Chiêu nhé !
    Và bây giờ …cuộc sống của mỗi người khác nhau,ngày về họp mặt thường niên cũng khó khăn hơn, tuy nhiên mọi người nên cố gắng về để được gặp nhau đầu năm mới.
    Riêng mình không hứa được gì sẽ cố gắng và cố gắng để có mặt
    Mong rằng các bạn khỏe mạnh, để mãi mãi được gặp nhau.

                                                        Gialai mùa mưa 22-6-2015


                                                  _______________

THƠ
                           Chiều buồn nhớ quê

Chiều nay ta nhớ quê nhiều quá                      Nhớ đêm thu trăng dát ánh vàng
Nhớ lũy tre xanh từng ngõ vắng                      Từng giọt sáng long lanh tiếng hát
Đàn trâu về thui thủi chiều đông                     Lũ trẻ quê mọc cánh thiên thần
Trẻ theo sau co ro ướt át                                  Dạo chơi khắp lùm cây bãi cỏ
Tuổi thơ ơi vai áo bạc màu                              Đem giấc ngủ về với trăng sao
Nhớ con kênh quanh năm nước đục                Nhớ mùa xuân độn (1) đầy sim tím
Nắng trưa hè bắt hến mò cua                          Chiền chiện về cất tiếng trên cao
Lau sậy bên bờ buông tóc rối                          Từng chồi non chim về làm tổ
Rũ xuống dòng kênh nỗi nhọc nhằn                Vòng đời quê quanh quẩn bên tôi
                             
                                        Dẫu nắng mưa nơi nào cũng có
                                        Cỏ cây đâu cũng chỉ cỏ cây
                                       Ở quê, có tình ta trong đó
                                        Nhớ quê hương là nhớ chính mình
             
                                                                             Phan Thiết cuối Thu 2014
                                           
                                                                                             Hoang binh
   
                 
----------------------------------------------------------------------------------------------

                  MAI THIẾT –  BẠN TÔI
                                                                                 Huỳnh Ngọc Phẩm

      Thiết và tôi học khác lớp. Tôi biết Thiết khi vào đệ thất. Đến đệ ngũ tôi chơi thân với Thiết cùng nhóm bạn Trương Sửu Ngô Minh Hùng, Phạm Hữu Minh…Hầu hết bạn của Thiết đều ở phố thị, chỉ có tôi ở miệt đồng. Nhà Thiết ở xóm Cồn Chà,Đức Thắng, tôi ở xóm Gò Tranh cách Phan Thiết 2 cây số, sâu trong nội đồng cách quốc lộ 1 nửa cây số đường bờ ruộng.
     Thiết hơn tôi một tuổi. Thiết Ngọ, tôi Mùi. Vì Ngọ nên có lẽ cuộc đời Thiết là những tháng năm rong ruỗi đường xa. Tôi Mùi chỉ quanh quẩn quê nhà, gặm cỏ.
    Thiết điễn trai, vạm vở như một anh dân chài, phóng khoáng của một người miền biển. Tôi còm nhom khẳng khiu, chắc chiu, cần mẫn, y hệt một anh nông dân thiếu thốn quê mùa.
    Thiết và tôi có nhiều khác  biệt, song chúng tôi có cùng cảnh ngộ, cùng quan niệm về gia đình và cuộc sống. Thân nhau có lẽ: “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu”. Cha mẹ chúng tôi đều nghèo, khố khó, nghèo rớt mòng tơi. Nhà Thiết chỉ là một mái tôn, bốn bề vách lá tả tơi ở xóm cồn ven biển. Nhà tôi mái tranh vách đất ở quê. Mẹ Thiết giống mẹ tôi, ít học, chân chất lam lũ suốt đời đòn gánh đè vai. Mẹ Thiết gánh cá thuê, bán cá dạo. Mẹ tôi sáng gánh gạo, chiều gánh nước cơm nuôi heo. Có điều, dù khó nhọc song luôn ước mong con mình trở thành những người tử tế trong xã hội. Các bà quả là những người Mẹ Tuyệt Vời ,đối với chúng tôi
    Tôi coi Thiết như một người anh không phải vì hơn tôi một tuổi mà ở các đức tính và những tình cảm tốt đẹp mà anh dành cho tôi trong suốt cuộc sống. Anh thực tế, chững chạc, có khi đơn điệu, quan tâm một cách bình thường với mọi sự việc  kể cả thần chết. Anh đơn giản trong lời ăn tiếng nói, bằng cái tâm lương thiện tạo được ở người khác  cảm giác an toàn và không bao giờ trút gánh nặng lên bè bạn. Anh biết chơi và chơi đẹp, hào hoa và tình nghĩa.
    Tình bạn chúng tôi nẩy nở trong nghèo khó, chúng tôi tự lập, ra đời rất sớm, biết lo nghĩ đến tương lai một cách thực tiễn,cơm áo gạo tiền. Chúng tôi biết vượt qua những mãnh vở lận đận hèn của quá khứ, để lo liệu cho ngày mai. Trong những tháng năm chông chênh của dâu bể  cuộc đời, gặp nhau tay nắm lấy bàn tay cười vui mả không bi lụy, bởi lẽ trong cuộc sống cho nhau nụ cười sẽ dễ chịu hơn giọt nước mắt. Được sống mạnh mẽ như thế chúng tôi biết ơn cảnh đời cơ cực cay đắng của mình hồi nhỏ.
    Trong tình bạn, chúng tôi quan tâm đến sự chia sẻ, bao dung, rộng mở, bởi ánh lử chia xẻ là ánh lửu lan tỏa, bàn tay có rộng mở bao dung thì tâm hồn mới ngập tràn vui sống, đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Trong xử thế, bạn quyết định đời bạn, chứ không phải tôi và tôi không bao giờ phán xét quyết định đó.Chúng tôi chỉ có thể hổ trợ, khuyến khích giúp bạn khi bạn yêu cầu.
    Chúng tôi cũng có những cuộc tình long lanh lãng mạn và cũng không thể bảo vệ con tim của bạn thoát khỏi những đổ vỡ đau thương.Song,chúng tôi đã có lúc , cùng bạn biết góp nhặt những mãnh vỡ ấy, đẩ hàn gắn lại với nhau. Và, đã có một đám cưới, một gia đình đầm ấm.
    Một trong những hạnh phúc lớn nhất của đời này là tình bạn và một trong những hạnh phúc của tình bạn là có một người bạn hiểu, thông cảm trước sau như một với mình. Có nhiều người bạn đến rồi đi và chỉ có Thiết ở lại, tỏa sáng trong cuộc đời tôi và ngược lại.
    Bạn bè có phải việc giò cũng nói được đâu. Cuộc sống mỗi người một khác, thân nhau đến đâu cũng chỉ biết được  một ít góc khuất nào đó của nhau. Với Thiết, chúng tôi biết lẫn nhau nhiều góc khuất nhất.
    Phía bên kia sườn dốc của cuộc đời, cả hai chúng tôi đều thanh thản với vợ con, gia đình; không phải còn gấp gáp lo toan bởi những ước mơ đã thực hiện khá trọn vẹn.
    Cách đây hai năm, chỉ trong một ngày tôi đã mật cả mẹ và bạn. Mẹ tôi nhắm mắt được năm phút, Thế Anh, con anh Thiết điện thoại báo tin :  “Ba cháu  đã mất”. Niềm đau của tôi nhân đôi. Anh thương yêu mẹ tôi lắm, coi như mẹ ruột của mình. Anh thực sự chu đáo với mẹ tôi  cho đến khi nhắm mắt. Cách nhau nửa vòng trái đất, hai mẹ con cùng dắt nhau đi. Và tôi nghĩ nơi chốn đó thực sự bình an, hạnh phúc cho những người như anh và mẹ tôi.
                                                                              Phan Thiết đầu tháng 7- 2015.

                                                 
                                                     ____­­­­­­­­__________
  

THƠ    Hoàng Công  Bình  

                                  MƯA


Mưa Phan Thiết không buồn như Huế               Mưa Phan Thiết ít lần trọn buổi
Mưa từng cơn xối xả vội vàng                            Không lê thê dai dẳng nặng nề  Cùng với mây, cuốn tròn trời đất                      Mưa để nhớ rằng trời còn nước    Đong đưa ru nhân thế nhạt nhòa                      Mưa vì thương cây cỏ bạc màu
Cùng với gió xé từng sợi nhỏ                             Mưa cho em xanh thêm màu tóc
Trong li ti có cả ánh vàng                                 Mưa cho ta có một ngày thường
Những giọt nước long lanh màu ngọc              Mưa Phan Thiết, mưa vào cuối hạ
Chao nghiêng nghiêng da diết tình người        Để dáng trời thon thả mây trôi
Mưa như đùa lúc khoan lúc nhặt                      Để nắng về gặp mưa bối rối
Mưa như tình chợt có chợt không                    Để em thành mộng mỵ kiêu sa
Mưa như người nửa say nửa tĩnh                     Mưa Phan Thiết như muốn nói
Mưa như đời một kiếp rong chơi                    “Rằng  người ơi,                          
                                                                          Người ở đừng về”

                                   
                         
                                                   _____________


      CỐM HỘC PHAN THIẾT
                                                                                   Nguyễn Uthang



 Một người bạn đi chơi Phan Thiết về tặng quà cho tôi. Anh đưa mấy bịch cốm  nói:  “ Ông ăn thử đi !Thứ cốm mới ra này chắc hợp với người lớn tuổi.”  
     Liếc nhìn qua , tôi thấy loại cốm anh cho có hơi khác so với thứ cốm sữa thường bán cho du khách ghé ngang Phan Thiết mua về ăn hoặc làm quà cho người thân hoặc bạn bè .Cũng là đặc sản Phan Thiết, nhưng trên lô-gô không phải là hình trái sầu riêng bổ đôi với các múi vàng dày cơm bắt mắt nữa mà thay vào đó là hình những củ gừng xinh xắn màu đậm lợt khác nhau ẩn hiện sau ba chữ ” Cốm dẻo gừng “.Trong đầu tôi  chợt loé lên :“ Ô ! Cốm hộc đây mà !” Tôi cầm những bịch cốm nâng niu ngắm nghía . Lòng vui sướng chẳng khác gì lâu ngày gặp lại bạn cũ . Quả đây đúng là cốm hộc, thứ quà đặc trưng vùng đất biển Phan Thiết quê tôi . Chắc cơ sở làm cốm đã đổi tên để dễ dàng tung sản phẩm mới ra thị trường vào thời điểm không phải là tết .
     Nhiều năm qua cốm hộc dường như đã bị mai một bởi nó không còn được bầy bán ở chợ mỗi dịp tết đến .Thế mà hôm nay , cuộc hội ngộ giữa tôi và cốm hộc đã diễn ra hết sức bất ngờ Với nỗi xúc cảm đang trào dâng , tôi lấy một bịch cốm nhẹ nhàng mở lớp ni-lông bao bên ngoài. Cốm được cắt sẵn thành 5 lát .Có lẽ nhà sản xuất rút kinh nghiệm cốm hộc để nguyên khối như xưa hơi phiền phức khi ăn nên đã chia nhỏ ra cho “thượng đế “ tiện dụng . Trước mắt tôi , những lát cốm vàng lợt óng ả , xen lẫn với những mảnh gừng mỏng trong màu hổ phách, nom thật hấp dẫn .Tôi cắn từng miếng nhỏ ,cố nhai thật chậm rãi để tận hưởng cái hương vị thơm ngon của thứ quà vốn dĩ rất quyến rũ với mình  ngày xưa. Ăn như thế , tôi cảm nhận từng hạt cốm ngọt dịu , cay cay, thơm dậy mùi gừng đang tan nhuyễn dần rồi trôi qua cuống họng,thấm vào dạ dầy, thấm cả vào trái tim tôi . Mấy chục năm rồi mới được thưởng thức lại cốm hộc thì bảo sao lòng tôi không xốn xang cho được .
        Người dân Phan Thiết quê tôi vốn rất tự hào với cốm hộc bởi đó là một trong những món ẩm thực truyền thống không thể thiếu được trên bàn thờ tổ tiên mỗi khi, tết đến . Những người sinh sống nơi xa, dù ở trong hoặc ngoài nước ,đều không quên dặn dò người thân gửi cho mình dăm bịch cốm để bày bàn thờ cho đúng thông lệ và để khi ăn có thể nhớ lại hương vị quê nhà.Tuy không sang trọng, nổi tiếng đi vào văn thơ như cốm làng Vòng bọc lá sen xứ Bắc, nhưng cốm hộc cũng không kém tinh tế trong các công đoạn chế biến và còn không thua cả về mặt hương vị quyến rũ .Với trẻ con ,cốm hộc là một thứ quà rất hấp dẫn . Chúng rất muốn cốm hộc có quanh năm để được cha mẹ cho ăn thường ,ăn hoài thứ quà vô cùng ngon miệng này . Nhưng mong muốn của chúng không thể xẩy ra được vì chỉ đến những  ngày cận tết , khoảng từ 20 tháng chạp đổ về ,người ta mới bắt đầu sản xuất cốm .Khi còn bé ,tôi cũng rất mê cốm hộc .Cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch ,thế nào tôi cũng theo mẹ đi chợ tết để nhắc mẹ mua cho dù chưa có năm nào mẹ quên cả.Cốm mua về được bố bày trang trọng trên bàn thờ để dâng cúng ông bà tổ tiên. Khi hết ba ngày tết, cúng tiễn ông bà đi xong, cha mẹ mới cho phép lấy cốm hộc ăn. Bịch cốm khá lớn nên bao giờ cũng phải cắt ra thành những miếng nhỏ đưa mời nhiều người cùng ăn. Ba mẹ tôi thường nhâm nhi cốm hộc với trà tầu hay trà sen. Còn tôi thích xin thêm một , hai miếng chạy ra đầu xóm để chia miếng ngon cùng mấy đứa bạn .
   
  Cốm hộc là thức quà đặc trưng của vùng đất Phan Thiết, là tinh hoa truyền lại từ nhiều đời. Nó không chỉ là đặc sản ẩm thực ngày tết mà còn là nét văn hóa riêng của địa phương .Người dân quê tôi mỗi khi nhìn thấy cốm hộc là biết xuân đã về , biết tết sắp đến .Nhiều năm qua , món quà truyền thống này tưởng chừng bị mai một, chìm vào lãng quên bởi ít thấy xuất hiện trên thị trường . May thay, hôm nay thức quà truyền thống này đã được hồi sinh với cái tên khác.Cho dù “cốm dẻo gừng” hay “cốm hộc” thì cũng chỉ là cốm Phan Thiết quen thuộc mà thôi. Chắc có lẽ nhiều người xa quê nặng lòng với quê hương vẫn nhung nhớ khôn nguôi cái tên cốm hộc ngày xưa do đã thân thương ,gần gũi tự bao đời .Nhưng xá gì cái tên gọi bởi trong tận cùng trái tim của những người dân thành phố biển ,hình ảnh cốm hộc vẫn ngự trị,in sâu như một giá trị tinh thần không bao giờ phai lạt .
                                                              ____________
     
                Sáu chục năm qua như một giấc mộng.Tất cả chỉ còn là
                 kỷ niệm ấm áp mỗi khi chúng ta cùng nhau hồi tưởng.
                                               


                                                      ______________


                   TRANG  THƯ  GIÃN   

                               CƯỜI LÀ LIỀU THUỐC BỔ                                                      
                                                                                  Nguyenuthang (Sưu tầm )


    Giá một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện,
   nhưng nụ cười lại tỏa sáng nhiều
   hơn hàng trǎm bóng đèn điện.
   Vậy hãy cười lên  đi các bạn ơi !                                                                                  
1.    Bốn tô phở

       Anh chàng nọ có bồ đang có bầu với anh ta. Không muốn vợ nghi ngờ nên anh đưa một món tiền lớn để cô đến nơi khác sinh nở. Trước khi lên đường, cô hỏi:
_ Nhưng em làm thế nào để báo tin cho anh biết là em đã sinh con.
_ Hãy gửi cho anh một tấm bưu thiếp và đề "một tô phở" lên đó, anh khắc hiểu.
       Tám tháng sau, người đàn ông ngã lăn ra vì một cơn đau tim. Bà vợ giải thích với bác sĩ cấp cứu rằng, vừa thoạt nhìn tấm bưu thiếp mới nhận được , ông ta đã khuỵu xuống, rồi bà đọc to cho bác sĩ nghe:
_ 4 tô phở , hai tô có bò viên và hai không có bò viên.

2.    Bú sữa mẹ

        Một thiếu phụ mang một em bé sơ sinh vào khám tổng quát tại một văn phòng bác sĩ nhi khoa. Sau khi khám em bé xong, bác sĩ nói:
   - Cháu bé thiếu cân rất trầm trọng. Không hiểu là bé bú sữa mẹ hay bú sữa chai?
Người thiếu phụ trả lời:
    - Cháu bú sữa mẹ.
Bác sĩ nói:
   - Thế thì xin bà ngồi trên ghế này; cởi áo ra để tôi khám xem.
   Sau khi xoa nắn… rất kỹ lưỡng bộ ngực của thiếu phụ, bác sĩ kết luận là:
    - Cháu bé thiếu cân, lớn không nổi là phải rồi. Bà chẳng có sữa gì cả.
Thiếu phụ trả lời:
   - Bác sĩ nói rất đúng, vì tôi là… dì của nó !

3.    Nghe chửi mất gà

   “Cha cao tằng tổ mẫu, thúc bá, đệ huynh, cô dì tỉ muội thằng cha đứa nào đã bắt con gà nhà tao!Con gà ở nhà tao là con gà, con qué. Nó về nhà mày là con cú, con cáo. Nó mổ gan, lòi ruột những đứa ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thần nanh, đỏ mỏ rút gan, rút ruột nhà mày ra. Mày không thả con gà nhà bà ra, bà đóng ghế 3 tháng 10 ngày, buổi sáng bà chửi, buổi tối bà chửi, buổi trưa bà hú, bà nguyền, bà rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột của cha ông, vợ con nhà mày ra ! Tao hú 3 hồn, 7 vía thằng đàn ông, 3 hồn 9 vía con đàn bà đã bắt con gà nhà tao. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cầm cờ đỏ đứng sau nhà, ông cầm cờ vàng bên hữu, ông cầm cờ trắng bên tả yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì đã dám ăn con gà nhà tao!...”

   4. Cắt tóc miễn phí

        Một người dắt đứa bé trạc năm, sáu tuổi bước vào hiệu cắt tóc sang trọng. Ông ta tỏ vẻ vội vàng và bảo người thợ cắt cho ông trước rồi cho thằng bé sau.
- Nó chờ được mà, ông cắt cho tôi trước đi .Ông ta nói.
    Người thợ làm theo lời. Khi hoàn tất, người khách ra khỏi ghế và cho thằng bé ngồi vào thế chỗ. Ông cáo lỗi phải có việc ra ngoài và sẽ quay lại sau vài phút.Nửa giờ trôi qua. Một giờ trôi qua. Cuối cùng không đợi được , ông thợ hớt tóc lên tiếng:
- Sao bố cháu mãi chưa quay trở lại?
- Ông ấy đâu phải bố cháu đâu ạ. Cháu đang chơi ngoài đường thì ông ấy tới bảo: "Đi theo bác, cháu sẽ có một mái tóc miễn phí tuyệt đẹp".

5.  Obama luyện thư pháp với Ông đồ Cẩn


                                       
      6. Obama được tặng Đặc san 60 Năm Tình Nghĩa Bạn Bè 

       

         

             
                                                     __________

                                 LỜI  KẾT

          Một lần nữa, Ban Biên Tập chúng tôi xin chân tình cảm ơn những bạn đã gởi bài tham gia , chúng tôi đã cố gắng đưa vào tập Đặc San này tất cả  bài, hình ảnh anh chị gởi đến trước 30 tháng 6 năm 2015.
          Chúng tôi nghĩ rằng, đây không chỉ bày tỏ chuyện chung, chuyện riêng chuyện của mình và chuyện của đời với nhau mà còn  có ý nghĩa sâu xa hơn, đây là tấm lòng đối với nhau, lúc cùng đang đi trên chặng đường cuối của cuộc đời.
          Chúng tôi biết các anh chị, đã cố gắng hết sức, để bày tỏ với nhau, gởi gắm cho nhau những điều mình cảm nhận, ấp ủ, song bởi giới hạn của ngôn ngữ,  giới hạn của thực tế cuộc sống,vẫn còn sâu  trong lòng mỗi chúng ta những điều tốt đẹp dành cho nhau, chưa nói hết.  Dẫu chúng ta ai cũng đã ở tuổi xưa nay hiếm cả rồi, nhưng viết văn, làm thơ cho nhau đọc, cũng mang dáng dấp, phong cách học trò, ở tuổi 15-16, như trong lời nói đầu, hay dở, khen chê chỉ xin các bạn một nụ cười.
         Với các bạn không thể viết, chưa viết kịp, chưa gởi kịp,chúng tôi xin mọi một sự đồng cảm .Sau cùng dù rất cố gắng nhưng nhân lực vẫn như hạn chế thời gian ,chúng tôi mong các bạn bỏ qua những sai sót nếu có trong tập này.

                                             
                                                                                   Ban Biên Tập

                                             ________________


                      MỤC LỤC

  STT                   TIÊU ĐỀ VÀ TÁC GIẢ                                                .           
  1. Bìa 1  Nguyenuthang  thiết kế   
  2. Bìa 2 Ảnh thầy Lê Tá và phu nhân  
  3. Ảnh thầy cô dạy bậc TH Đệ nhất cấp. 
  4. Danh sách các thành viên trong Ban biên tập
  5. Lời nói đầu   
  6. Danh sách thầy cô dạy bậc trung học Đệ nhất cấp
  7.  Danh sách thầy cô dạy bậc trung học Đệ nhị  cấp
  8.  Danh sách các bạn đã qua đời
  9.  Đôi lời thì thầm với các bạn đã khuất   
  10. Vĩnh biệt Lê  Giao   
  11. Thơ “ 60 năm “ –   Nguyễn Thị Kim Liên 
  12.  Thế hệ chúng mình  -  Danh sách bạn bè khoá V Phan Bội Châu 
  13. Kể chuyện về thầy Lê Tá – Mai Xuân Cúc 
  14. Vì  mái trường xưa   –   Nguyễn Đình Thăng 
  15. Họp mặt Chiều mồng bốn tết    – Hoàng Công Bình 
  16.  Thơ  Chuyện ­ Sen    –    Nguyễn Thị Kim Liên 
  17.   Đêm chong đèn ngồi nhớ lại   –   Hoàng Công Bình 
  18. Tập thơ của thầy Trần Phụng Tường   –   Hoàng Công Bình 
  19.  Thư pháp “Phan Thiết” -   Phạm Gia Cẩn 
  20.  Chuyện bạn bè dưới mái trường Phan   -  Nguyễn Đình Thăng 
  21.  Hoa xương rồng   –   Hoàng Công Bình 
  22.   Vài ý tưởng tản mạn  –  Phạm Gia Cẩn 
  23.   Thơ  Vu Đoài  -  Dương Tấn Quý  
  24.   Thơ Nguyên Đạo  –   Từ Ngọc Nam
  25.   Thơ Nguyễn Thị Kim Liên  -   Hoàng Công Bình 
  26. Thư pháp   –   Phạm Gia Cẩn 
  27.  Trường Phan Bội Châu với tôi  -   Huỳnh Ngọc Phẩm 
  28. Bẩy năm dưới mái trường Phan   –   Nguyễn Đình Thăng 
  29. Thơ  Chuyện Sen   -   Nguyễn Thị Kim Liên 
  30. Trang  thơ   Hoàng Công Bình -Nguyenuthang 
  31.  Lần đầu thăm lại trường xưa    –   Nguyễn Đình Thăng 
  32.  Thơ Nguyễn Thị Kim Liên
  33.  Chuyện qua đường   –   Hoàng Công Bình 
  34.  Thơ Hàng Bô   -   Hồ Như Bang
  35. Tư vấn sức khỏe –  Bác sĩ Lê Thiệu Hùng -Bác sĩ  Đỗ Hồng Ngọc 
  36.  Thơ Hoàng Công Bình 
  37.  Tình bạn    Lê Quang Chiêu 
  38.  Ngày về gặp lại thầy Vĩnh Giên    –   Phạm Quỳnh Châu
  39.  60 Năm không thể nào quên – Nguyễn Thế Tân 
  40. Quà tặng của đời   –   Hoàng Công Bình 
  41. Nếu biết rằng em đã lấy chồng   –   Mai Trung Trực
  42. Họp mặt Chiều mồng bốn Tết    -   Hoàng Công Bình
  43.  Hoài cảm cuối năm –   Nguyễn Đình Thăng 
  44. Trang thơ  –  Thơ  Hoàng Công Bình 
  45.   Chùm ảnh :   Thăm thầy cô ­ -  Thăm bạn bè  
  46. Chuyện nhỏ không sao đâu   –  Mai Trung Trực 
  47. Tuỳ bút “Thương nhớ Bùi Xoài   –   Lê Trọng Yêm
  48. Mai Thiết Bạn tôi   -   Huỳnh Ngọc Phẩm 
  49. Cốm Hộc Phan Thiết   –   Nguyễn Đình Thăng 
  50.  Trang Thư giãn   -   Nguyenuthang
  51.  Lời kết 
  52.  Bìa 3 : Mô hình trường TH Phan Bội Châu PT - Lê Thiệu Hùng
  53.  Bìa 4  : Ảnh Tượng cụ Phan Bội Châu 
                                                  ________________


MÔ HÌNH TRƯỜNG PHAN BỘI CHÂU 



                                                                        Ảnh của Lê Thiệu Hùng
                                            ______________
           

                   

                                                ____________

Ghi chú của người post :

              Mời bạn bè khoá V trung học Phan Bội Châu  Phan Thiết ,có thể cả những bạn khoá sau, bổ sung thêm bài viết ( Thơ hoặc văn ) cùng chủ đề vào Đặc san 60 năm Tình nghĩa bạn bè trên đây để  các bạn trong và ngoài nước cùng chia sẻ.
                                                                            Trân trọng                  
                                                                  Blogger Nguyenuthang

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..