16 thg 9, 2016

Bây giờ là mùa thu, tôi đi tìm dĩ vãng

 Thật ra 99.9% ca khúc “bất hủ” của Trịnh Công Sơn
 được sáng tác vào thời trước 75 ở Sài Gòn và Huế. 
Cho nên ngày nay khi người ta “vinh danh” Trịnh 
Công Sơn chính là vinh danh nền văn hóa của 
Miền Nam VN vào thời trước 75.

        Bây giờ là mùa thu ở Sài Gòn và cũng là mùa lá rụng ở Rừng Phong trên đất Mỹ. Buổi chiều ngồi trong căn chung cư nhỏ hẹp nghèo nàn nhìn mưa dăng nhẹ ngoài khung trời ngoài kia, tôi bỗng muốn thoát khỏi mình trở lại sống với những ngày xưa. Những ngày xưa có bạn bè, có mộng ước xa vời, có yêu thương giận hờn, có quá nhiều thứ như ở một thế giới khác.

                                         https://youtu.be/KriAxomGPSM
Tôi ngồi vào computer đi tìm dĩ vãng. Gõ bàn phím vào những bài hát về Mùa Thu, bỗng hiện ra đầy đủ cả lời ca tiếng hát, những cuốn phim xưa, những danh ca tài tử đi mãi vào lòng người, đi mãi vào bất tận trong ký ức. Tôi bay bổng vào đó để gặp lại những người tôi đã từng quen, đã từng là bạn, đã từng kề vai nhau một thời xa vắng. Ở đây, tôi chỉ gặp những người đã từng có mặt trên các sân khấu ca nhạc và trong những cuốn phim đã từng chiếu ở VN trước năm 1975, gọi chung là những người trong “làng giải trí” mà tôi đã quen hay đã từng coi nhau như bạn bè.


Tiếng hát ngày xưa

Tiếng hát Lệ Thu, Khánh Ly, Thái Thanh, Thanh Lan… và quái lạ sao lại có cả tiếng hát Kim Vui. Tôi quen Kim Vui và cùng đi làm phim Chân Trời Tím nhưng chưa bao giờ nghe cô hát bài này của Nhật Trường. Hôm nay tôi mới được nghe lần đầu. Hình ảnh Kim Vui và Nhật Trường hiện ra trước mắt tôi. Sao mà thân quen đến thế. Kim Vui đóng phim như mang cả cuộc đời mình vào nhân vật, lãng mạn “cực kỳ,” táo bạo như Ava Gardner. Nhưng khi hát cô đằm thắm dịu dàng như ve vuốt bên người tình. Lần đầu tiên nghe Kim Vui đấy Kim Vui ơi. Và lần cuối cách đây vài năm, tôi nhận được e mail của Kim Vui chỉ có đúng hai chữ “Helo, anh.” Hai chữ thôi nhưng thân thiết lạ thường.
Và Nhật Trường, khi vừa đọc cuốn truyện này anh đã làm bài hát đó. Buổi trưa hè anh nhảy vào phòng tôi ở Đài Phát Thanh Quân Đội, anh khẽ cất tiếng hát rồi rỉ tai tôi, “Tối nay Minh Hiếu sẽ hát lần đầu tiên bài này trên dancing Paramount.”


Tối đó tôi lên nghe Minh Hiếu hát lần đầu. Đó là người hát Chân Trời Tím hay nhất. Dường như cô mang cả chuyện tình của mình gửi theo từng lời ca. Mấy lần về Sài Gòn, đến thăm tôi, cô cũng mang nguyên dáng vẻ ấy. Cô bước vào trong ánh sáng chập choạng cũng một buổi chiều mưa, cười, “Tôi về đến VN sáng nay, người đầu tiên tôi đến thăm là anh đấy. Anh cho tôi biết về tình hình bạn bè ở Sài Gòn.”
Trong thế giới riêng chiều nay trong tâm tưởng tôi có nhiều thứ quá. Lại nhìn đến hàng loạt những bài ca, những tác giả, những đạo diễn, diễn viên mà tôi đã từng quen biết.
Đóng phim cho vui
Lại nhảy sang gặp cuốn phim “Người Tình Không Chân Dung” của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc. Trước tháng Tư 1975, anh thường sang nhà tôi ở ngõ Chu Mạnh Trinh nằm dài trên ghế sofa. Con người nghệ sĩ lúc nào cũng ôm ấp những ý tưởng “đặc biệt” quá tầm tay. Anh thích những nhân vật như Steve McQueen trong Les Sept Mercenaires. Lầm lì mà gan dạ, cuốn phim “nổ như bom tấn” lại mang một triết lý “siêu đẳng” nhưng chẳng “đại gia” nào dám bỏ tiền ra cho anh thực hiện hoài bão gần như ngông cuồng đó. Anh làm phim với tất cả những gì xin được.
           Trong cái ê kíp làm phim ấy, tôi gặp lại Kiều Chinh và Vũ Xuân Thông.
Trước khi làm phim này Kiều Chinh và Hoàng Vĩnh Lộc đến gặp tôi ở Nha CTTL. Chúng tôi băn khoăn tìm kiếm những đơn vị quân đội có thể yểm trợ cho cuốn phim này. Khi quay phim, chúng tôi đến ăn ngủ ở ngay tư dinh của ông Thị Trưởng Cam Ranh, Đại tá Vũ Thế Quang tức Quang Dù. Hôm sau quay ngay mấy cảnh trên hòn đảo Cam Ranh. Hoàng Vĩnh Lộc mời một loạt những ông văn nghệ sĩ chỉ biết viết văn làm thơ, chẳng biết một xu diễn xuất nào như Duyên Anh, Hà Huyền Chi, Dương Hùng Cường, có cả Hùng Sùi đóng phim… cho vui.
Vũ Xuân Thông đóng vai chính với Kiều Chinh, trông đẹp đôi ra trò. Tôi và Vũ Xuân Thông đi “trình diện vào tù cộng sản” cùng một lúc. Thông có tài nắm sấp ngủ ngon lành và còn nhiều tài vặt khác, chạm trổ, vẽ vời rất điêu luyện. Tác phẩm lớn nhất của anh với chúng tôi trong trại cải tạo là những cái nõ điếu cày được mài dũa bằng đá và những chiếc điếu cày được “sáng tạo” khắc trổ rất công phu. Hút bằng nõ điếu đá, vừa không nóng vừa kêu tanh tách.
Còn Kiều Chinh lần nào về VN, dù rất bận với việc quay phim, cô cũng tìm thăm bạn bè. Chúng tôi thường gặp nhau ở nhà vợ chồng họa sĩ Đằng Giao - Chu Vị Thủy. Cái dáng dấp thanh mảnh và quý phái của cô như Grace Kelly cùng với tài diễn xuất thiên phú khiến nhiều hãng phim Mỹ, phim Việt mời cô cộng tác. Mấy năm nay không thấy cô về VN, mệt mỏi rồi phải không Kiều Chinh?


Từ trái qua: Văn Quang, Kiều Chinh, Đằng Giao, Phan Nghị năm 2004

Hai thằng quỷ này cái gì cũng chơi được

Bên cạnh Vũ Xuân Thông là Hà Huyền Chi và Dương Hùng Cường. Tôi thầm nghĩ: Hai thằng quỷ này cái gì cũng “chơi” được. Dương Hùng Cường đã từng viết chung với tôi truyện dài “Người Lính Hào Hoa” trên nhật báo Tiền Tuyến. Nó cũng là dân Thái Bình nên viết truyện Pilot Thái Bình, thật hay. Tôi giới thiệu bài viết của Dương Hùng Cường trên báo Chiến Sĩ Cộng Hòa với lời giới thiệu truyện mang cả mùi dầu nhớt của người lính thợ rất tinh tế và thật hơn những truyện bay bướm khác. Bạn tôi “ra đi” bao giờ tôi cũng không biết, có lẽ lúc đó tôi đang ngụp lặn trong nhà tù cải tạo.
Hà Huyền Chi ngoài tài làm thơ về “lính nhảy dù” rất hay còn đóng phim. Hồi đó rách tả tơi, ở cái nhà thấp lè tè đằng sau Viện Ung Thư Gia Định. Vậy mà cũng lập bàn mạt chược còm, khách “giang hồ” đến chơi khá đông. Ngày “tan hàng” nó rủ tôi chuồn xuống tàu Đại Hàn, nhưng tôi vô duyên không thể đi cùng. Vài năm sau, nó ở Seattle nghe tin tôi chết trong nhà tù, HHC viết bài khóc lóc thảm thiết. Tôi còn sống quay về, viết thư cho HHC, nó lại làm thơ “ngậm ngùi nhớ bạn.”

văn hóa miền Nam trước 1975

Tôi trở lại với những bài ca bất hủ về mùa thu. Trong âm nhạc, mùa thu là mùa được các ông nhạc sĩ nhắc đến nhiều nhất. Từ thuở tiền chiến như Văn Cao, Đoàn Chuẩn… đến thời hiện đại như Cung Tiến, Vũ Thành An, Trịnh Công Sơn… Lạc vào đây như lạc vào rừng bởi những cái tên bản nhạc, tên tác giả. Tôi bất chợt nghe “Gió heo may đã về/ Chiều tím loang vỉa hè/ Và gió hôn tóc thề/ Rồi mùa thu bay đi…” Đó là tình khúc “Nhìn Những Mùa Thu Đi” của Trịnh Công Sơn. Có rất nhiều nam nữ ca sĩ hát bài này, Lệ Thu, Hồng Nhung, Thanh Lam, Hồng Hạnh, Trâm Đăng, Khánh Hà, kể không hết.

Tôi nhớ lại những ngày cùng Trịnh Công Sơn, Khánh Ly, Ngọc Anh rủ nhau đi ăn cơm bụi Bà Cả Đọi. Và tôi khẳng định nhạc của Sơn chỉ hay vào thời trước năm 1975. Thời kỳ vàng son của nền văn hóa Miền Nam, khác hẳn với miền Bắc. Sau những năm đó nhạc Trịnh chỉ còn một, hai bài “nghe được” như “mùa thu Hà Nội.” Thật ra 99.9% ca khúc “bất hủ” của Trịnh Công Sơn được sáng tác vào thời trước 75 ở Sài Gòn và Huế. Cho nên ngày nay khi người ta “vinh danh” Trịnh Công Sơn chính là vinh danh nền văn hóa của Miền Nam VN vào thời trước 75. Tôi mỉm cười một mình giữa đêm mùa thu Sài Gòn
.

Tài tử Anh Ngọc với tôi

Bật sang những ca khúc bất hủ khác, tôi gặp lại danh ca Anh Ngọc với vô số những bài hát có vẻ hơi “cổ điển” như tính cách của anh vậy. Thiên Thai, Con Thuyền Không Bến, Mùa Thu Chết, Nguyệt Cầm và còn nhiều nữa. Bước lên sân khấu, ông luôn chững chạc, trong bộ complet và nghiêm chỉnh trình bày bài hát. Không điệu nghệ như Nhật Trường luôn vắt chiếc áo veston trên cánh tay như Frank Sinatra. Vì ông đẹp trai “quá cỡ thợ mộc” nên chúng tôi thường gọi ông là “tài tử Anh Ngọc.”
Ông sinh năm 1925, hơn tôi 8 tuổi. Chẳng hiểu từ bao giờ, tôi quen biết ông, chúng tôi thường gặp nhau trong căn nhà thuê ở con hẻm hẹp đường Cao Thắng của Thanh Nam, Hoàng Thư, Thái Thủy... Và những buổi chiều tà lại cùng Mai Thảo, Phạm Đình Chương ngồi ở nhà hàng Point des Blagueurs, tục gọi là “Mỏm Đấu Láo” dưới chân Cột Cờ Thủ Ngữ, bên sông Sài Gòn. Bây giờ ông và gia đình sống ở vùng Virginia bên cạnh một loạt các ông bạn tôi Hoàng Hải Thủy, Tạ Quang Khôi, Uyên Thao, Hoàng Song Liêm.
Mấy lần ông cùng vợ ông (bà Nhung đi công tác cho đài VOA) về VN, lần nào cũng đến thăm tôi. Lần sau cùng cách đây khoảng hai năm, tôi bị ốm không thể mời ông ăn bữa cơm với những món gia truyền như nộm rau muống, cuốn ngỏ, cháo cá ám đã thất truyền ở VN, không nhà hàng nào làm được. Ông mời tôi ra quán Cơm Niêu cùng vài người bạn.
Trước khi chia tay, đứng trên vỉa hè, ông ôm vai tôi nói lớn, “Bây giờ ở đây chỉ còn mình mày.” Đây là lần thứ nhất ông xưng hô “mày tao” với tôi, chưa bao giờ tôi nghe ông xưng “mày tao” với bất cứ ai. Cái tình thân 60 năm đọng lại ở đó, sâu lắng ở đó. Tôi ngẩn ngơ nhìn bóng dáng ông cùng bà Nhung bước lên chiếc Taxi màu vàng. Bóng dáng ông khuất sau ngã tư con đường Sài Gòn thân thuộc.

Những rạp hát xưa của tôi

Nói đến phim ảnh và ca nhạc kịch phải nói đến những rạp chiếu phim, rạp hát, sân khấu ca nhạc thời xưa. Tràn lan, tôi không thể kể hết tên những nơi chốn ấy. Từ những rạp hát phố nhỏ đến rạp phố lớn, hàng trăm rạp. Nhìn lại vài rạp nhỏ như Cẩm Vân - Võ Di Nguy, Phú Nhuận; rạp Cao Đồng Hưng – Bạch Đằng chợ Bà Chiểu, Gia Định; rạp Đại Đồng – Cao Thắng; Nam Quang – Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp… Nhưng vài rạp mang nhiều dấu ấn nhất cho tình yêu tuổi trẻ của phần đông anh em chúng tôi là Rạp Eden nằm giữa đường Catinat, rạp Majestic cũng nằm cuối con đường này, rạp Rex - góc đường Lê Lợi & Nguyễn Huệ, ba rạp được coi là đẹp nhất Sài Gòn.
Nơi ấy khi mới biết yêu, những cặp tình nhân thường đưa nhau đến đấy xem những cuốn phim tình cảm lãng mạn. Ở Eden, Majestic có những lô riêng cho bốn người, thường chỉ có hai người cùng nắm tay nhau, vai kề vai xem phim mà đôi khi chẳng biết nó chiếu cái gì. Họ quá bận với tình tự kiểu học trò. Bây giờ còn thấy nóng cả môi.
Những phòng trà đi vào ký ức
Có vài sân khấu nhiều kỷ niệm nhất với chúng tôi. Đó là phòng trà Hòa Bình của nhạc sĩ Ngọc Bích, với những ca sĩ thành danh rồi bay đi như Bích Chiêu, Bạch Yến, Bạch Quyên, Trúc Mai, Băng Tâm… Phòng trà đáng nhớ hơn là Đêm Màu Hồng của ông công tử Trần Quý Phong chủ hotel Catinat. Nơi đó những ông Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo vẫn ngồi uống rượu. Có ban nhạc của gia đình Phạm Đình Chương, Thái Thanh.
Thái Thanh là đệ nhất danh ca VN ai cũng biết rồi, nhưng còn chuyện rất ít người biết. Tôi nhớ lại những năm còn trẻ, chúng tôi thường đến nhà thân mẫu Phạm Đình Chương (chúng tôi gọi là bà cụ Hoài Bắc) đánh chắn.
Hồi đó Thái Thanh mới lấy chồng, ở trên căn lầu nhỏ xíu phía sau nhà. Cô thường ngồi sau mẹ, chia bài nhanh thoăn thoắt. 120 quân bài chia làm 6 phần, rất ít khi nhầm. Thỉnh thoảng cô nhỏm vào nhìn bài của mẹ, tay vẫn chia đều… chia đều. Ván bài chưa xong cô đã chia xong. Ở Sài Gòn không ai chia bài nhanh hơn cô. Bây giờ nghe chị Tâm Vấn kể lại, mấy tháng trước, khi sang Mỹ, đến thăm Thái Thanh không còn nhận ra ai nữa. Sao bỗng thấy bùi ngùi quá Thái Thanh ơi.

Làm sao tôi kể hết được những “huyền thoại” đó, nay đã thành “thần thoại” như chẳng bao giờ có thật vì không thể tìm lại được nữa. Một đêm mùa thu đi tìm dĩ vãng để được sống lại với thời xa xưa. Bây giờ là mùa thu. Mùa thu vàng hoa cúc. Mùa thu ở Sài Gòn, mùa thu ở Rừng Phong và ở khắp nơi trên thế giới, nơi có những người bạn của tôi. Nói đến bao giờ cho hết. Trong tôi chỉ còn vương vất mấy câu thơ của Xuân Quỳnh:

“Thời gian như ngọn gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi…
Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại…”

                                                             Văn Quang, Sài Gòn một đêm giữa mùa thu 4 tháng 9, 2015

TÂY SƠN HÀNH

 Tài liệu văn thơ cổ sưu tầm trên net
          
Phần 1.Bài bình luận từ trandongduc' s Blog

          Mới đây, một bài thơ được coi tư liệu đặc biệt trong Viện Hán Nôm truyền ra bên ngoài. Bài thơ đẹp như bức tranh thêu, miêu tả sống động cảnh đêm động phòng hoa chúc giữa Hoàng Đế Quang Trung và Ngọc Hân Công Chúa.      

       Tây Sơn Hành của danh sĩ đời Lê, Trần Danh Án (1755-1794) từ nay chắc chắn sẽ được xem là bài thơ vô tiền khoáng hậu nhất trong lịch sử thơ văn dân tộc. Vô tiền vì trước đó không ai miêu tả cảnh "khuê môn đại phòng" một cách tình tiết như thế. Khoáng hậu là vì ngay cả thời nay không ai có thể làm thơ bằng chữ Hán (chấp luôn cả chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ) mà có đủ các bối cảnh của lâu đài tình ái, giang sơn mỹ nhân một cách kinh thiên động địa như anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, 33 tuổi "đối ngẫu thần tiên" với Ngọc Hân công chúa, 16 tuổi đang vị thành niên.Bài thơ viết theo thể thất ngôn cổ thi trường cú dài tương đương với Tỳ Bà Hành bên Tàu được nhắc đến trong thư tịch nhưng nguyên văn thì chưa được đưa ra ngoài cho dân gian thưởng ngoạn - cho đến hôm nay qua blog Hán Nôm của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện.Do quan niệm chống Tây Sơn quyết liệt, cứ cho là nhà Tây Sơn bất xứng chẳng khác gì bọn man di hoang dã trong rừng, nhân sĩ Bắc Hà nhìn nhà đạo quân Tây Sơn ngang phè giữa Thăng Long với cặp mắt chính thống của Nho gia ngoài ấy. Nhưng, rõ ràng trong lòng họ lại chất chứa một tâm trạng hiếu kỳ về tính cách phong bạo thô tục chơi bời để che đậy tâm lý buông thả phù hợp với hoàn cảnh xã hội thời vua Lê chúa Trịnh bấy giờ. Bài thơ còn có nhiều góc cạnh để liên tưởng đến xã hội hôm nay rằng nhân sĩ Bắc Hà luôn luôn thâm sâu sầu kín nhưng đứng trước nghịch cảnh thô bạo thì đành trôi theo dòng đời.Khi Nguyễn Huệ đưa quân tiến vào kinh thành Tràng An (Hà Nội), phù Lê diệt Trịnh xong, lại lấy ngay ngàn vàng công chúa thật làm cho nhân sĩ thời Lê xanh mang khiếp vía. Choáng quá! Việc Hoàng Đế Cảnh Hưng phải đem công chúa Ngọc Hân ra gả cho Nguyễn Huệ chẳng khác gì chiêu bài dùng mỹ nhân cúng cho Tây Sơn để đổi lấy sự bằng an ngôi vị. Bài thơ miêu tả, Ngọc Hân bị cảnh "Chiêu Quân Cống Hồ" nên đành buông xuôi số phận. Nhưng rồi, qua đêm tân hôn quá bạo cuồng kích hứng về mặt dục tính - khúc Tây Sơn Hành đã biến thành Tây Sơn Hành Lạc Xứ khiến nàng công chúa lâm vào tình huống bị chinh phục thống khoái, (kiểu người dân tộc Tây Nguyên luyện voi mới bắt về, vừa đốt lửa vừa cho ăn đường làm cho bị đam mê thuần phục) nên nàng đành phải thống thuộc về chủ mới. (Sau này chàng băng rồi, nàng Ngọc Hân còn viết thành khúc Ai Tư Vãn để đời để tỏ lòng thương xót quân vương. Đây đúng là một thiên tình sử.Trở lại vấn đề, tác giả dùng mạnh bản năng gốc, dâm hoa mưa gió, tâm lý khát khao, ân ân ái ái để thể hiện thái độ bối rối trước những biến đổi về chính trị.Đúng vậy, mặc dù, danh sĩ Bắc Hà như Trần Danh Án cố tình dùng ái dục để xuyên tạc hình ảnh anh hùng qua ải mỹ nhân, cốt tìm vào sự phỉ báng thông thường của số đông một cách chống chế, nhưng qua đó lại càng biểu lộ tâm sự sâu kín - nhân sĩ Bắc Hà, đang hoàn toàn bất lực bị trói chân trên chính mảnh đất của mình.Không còn chối cãi gì nữa, tâm trạng nhân sĩ Bắc Hà chính là hình ảnh Ngọc Hân công chúa như bướm như hoa thời loạn lạc tùy vào ai đó muốn làm gì thì làm, lấy nhục làm vui, lấy đọa đày làm niềm khao khát, lấy thú đau thương làm sức chịu đựng mang tính khảo nghiệm và thử thách trước quãng đời.Nhưng rồi, dù như dự đoán được hậu vận nhà Tây Sơn không được lâu bền - Bắc Hà danh sĩ cũng đành phải nhắm mắt kêu trời, dùng dục vọng tối thiểu của con người để biểu lộ tâm tình và tâm tính (kiểu như văn hóa sex trên vnexpress thời bây giờ) - Thử hỏi ai còn làm gì được đây khi công chúa ngàn vàng cũng gả cho Tây Sơn. Đám con hát ngoài đường cũng chạy theo quân lính Tây Sơn nườm nượp. Thật là một nỗi đau mất mát, một nỗi sầu thiên thu.
Giá Trị Lịch Sử Nhân Văn
Bài thơ cũng tràn đầy tâm trạng chính trị, ngoại giao đến phong cách văn hóa, sinh hoạt và cuộc sống từ tâm lý phu phen cho đến phường son phấn. Cho dù, tác giả ở vị trí tự cao, tỏ lòng miệt thị quân binh Tây Sơn và những người chạy theo Tây Sơn, nhưng toàn bộ bài thơ là sự ham muốn tột bậc tràn đầy chất phù phiếm như trốn tránh sự đấu tranh trực diện. Sự ghen tức, sự châm biếm chẳng qua là một nỗi khổ tâm của thân phận bên lề.  Đây là trạng thái tâm lý chân thật nhất của bài thơ. Vô tình, bài thơ là một tư liệu sống động chân thực để tìm hiểu thuần phong mỹ tục của người xưa 
Vượt qua ngưỡng của nghiên cứu "dâm học" (cái học về sự phù phiếm - tự điển Hán Việt Đào Duy Anh), giá trị nhân văn lịch sử của bài thơ không biết kể làm sao cho hết. Mức độ xa hoa, màu sắc tình tiết trong chốn khuê môn đại phòng ở Thăng Long còn hơn cả Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng của bên Tàu hợp lại. Nếu đứng ở tượng đài văn học mà thẩm định, giá trị của nó càng cao hơn nhiều tác phẩm kinh điển ước lệ khác.
Các nhà làm phim cổ trang của Việt Nam từ này như có thêm nguồn tư liệu quý giá để tái tạo văn hóa cung đình Việt Nam mà không sợ người đời chê trách là đi ngược thuần phong mỹ tục. Cứ lấy ngay bài Tây Sơn Hành, cứ bắt chước tổ tiên mà dàn dựng cảnh trí, chấp các nhà kiểm duyệt văn hóa khó tính, chấp luôn đạo đức cách mạng thời xã hội chủ nghĩa. Chấp luôn… Tìm hiểu bài thơ chính là mở rộng không gian về một thiên địa tình trường tráng lệ bậc nhất của Việt Nam.
Theo sự thống kê của học giả bên Tàu thì viện Hán Nôm còn lưu trữ rất nhiều thư tịch chữ Hán, lâu lâu ai rảnh quá mới cho ra một bản. Cũng theo đánh giá thống kê này, hiện nay, chỉ có khoảng 10%-15% thư tịch là lọt ra ngoài dân gian. Nhưng số này đã qua điều chỉnh từ ngữ làm nhiều người không cảm nhận đúng mức tâm lý xã hội thời xưa.
Cách đây không lâu, bản Hoa Viên Kỳ Ngộ xuất bản, miêu tả luân lý ái tình tay ba của người xưa vào thời Lý Trần, rất gay cấn. Nhưng bản dịch đã qua chữ Quốc Ngữ rồi, không biết các dịch giả có gia giảm hương vị bao nhiêu. Người đọc có hứng thú đặc biệt thì không thể nào truy cứu nguyên văn. Bản Tây Sơn Hành có cả nguyên văn chữ Hán cho nên gây nên đang cơn sốt trong học giới. Cũng phải thừa nhân rằng, qua cách miêu tả cảnh chăn gối tình trường càng chứng tỏ văn hóa đô thị dưới thời Lê cũng rất cao. 
 Tư tưởng xã hội thời Lê   
  Như đã nói, ngoài yếu tố kỳ thị Tây Sơn, tác giả Trần Danh Án còn biểu lộ nhận thức về quan niệm xã hội Bắc Kỳ thời đó.  Bài thơ này còn toát lên hương vị "tiểu Trung Hoa tư tưởng" của danh sĩ thời Lê dành cho người đằng Trong. Người Đằng Ngoài (Đông Kinh) tự ví mình là văn hiến Hạ (Hoa Hạ) còn người Đằng Trong là Di (Man Di) không khác gì quan niệm tứ di của Trung Quốc.
 Khâm trù lạc xứ vô Di Hạ có nghĩa là cảnh vui mùng mền không còn phân biệt Hoa Hạ - Man Di, khi tác giả cảm thán về vũ điệu hòa thân giữa anh hùng áo vải vào công chúa Ngọc Hân. Lúc dịch qua tiếng ta, các học giả ở viện Hán Nôm cứ máy móc thành dân tộc Kinh và Rợ, thật là không đúng với nguyên bản, không phản ánh đúng quan niệm tự cho là trung tâm văn hiến của người xứ Đằng Ngoài.
Như đã nói, tuy miệt thị tính cách bạo tình của anh hùng Nguyễn Huệ nhưng qua đó chiếu rõ sự bất lực trước nghịch cảnh của nhân sĩ Bắc Hà đối với đạo quân thô bạo của nhà Tây Sơn.  Trong bài thơ, còn rất nhiều đoạn xem Nguyễn Huệ như là Man Di, không có văn hóa lễ giáo, qua cách ăn mặc khăn khố luộm thuộm chứa đầy tính thôn phu hoang dã.
   Nhưng rồi đến cả cách miêu tả mồ hôi như dầu, âm vang "phi tuyền" lúc Nguyễn Huệ đái vào cái chậu do a hoàn mang lại nghe còn dứt khoát hơn cả dòng thác cách mạng, hơn cả tiếng suối "Lê Nin" của ông Ké lúc ở Cao Bằng. Niệu thuỷ chi thanh như phi tuyền - thì đủ thấy sức run sợ của nhân sĩ Bắc Hà các thời đại phản ứng trước sự thần thái thô bạo như thế nào. Nhìn cũng thấy ngay, rất là tội nghiệp
Rồi thì: Nha giảo nhục chiên hãn như du - Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ (Ngấu nghiến rung thịt mồ hôi như dầu- Loạn xạ tơi bời không ngừng nghỉ)… Hình ảnh Nguyễn Huệ "ăn thịt" gái đẹp Thăng Long còn sống động còn hơn cảnh Tây Môn Khánh ngồi nhai thịt dê với Phan Kim Liên trong phim Thuỷ Hử… Nguyễn Huệ đúng là không phải là tay vừa. Toàn là những tình tiết mà thơ Vi Thuỳ Linh, văn Đỗ Hoàng Diệu còn phải kêu bằng cụ.
      Nhưng đó cũng lại toàn là những vần thơ lộng lẫy, dùng toàn là uyển ngữ tươi đẹp như cuồng oanh (con chim oanh điên cuồng - Oanh chính là chim Vàng Anh đấy! Thời xưa mà cũng biết lấy dụng ý Vàng Anh, hay quá ha‼!) để miêu tả cái "mã tàng âm tướng" coi như là cái chân tay thứ năm trên mình của anh hùng áo vải Quang Trung. Chân thực quá! Khi động khi tĩnh đều là thiên hạ vô đối. Còn với Ngọc Hân công chúa thì tác giả lại dùng các mỹ ngữ như "kiều hoa", "đào hoa phiến", "sa song tịch mịch mai hàm tuyết" để miêu tả thiên kim tiểu công chúa. Dâm ý tràn trề, đê mê lạc xứ, toàn là cảnh phong phong nguyệt nguyệt nhưng lại đẹp như một bức họa nam hoan nữ ái bên Ấn Độ, không biết phải diễn tả làm sao trong ngữ văn hiện đại cho đúng ý đây.
Việt Nam trong văn hóa Nho Giáo thời đó mà cũng có loại hình nghệ thuật miêu tả như thế này. Cũng lạ quá ha!
  Nhà bác Tam Uyển Trần Quang Đức của thời nay khi đọc đến bài Tây Sơn Hành thì quả thật hãi hùng chỉ còn kêu trời rồi nhận xét rằng "từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được..."
        Có thẹn thật không đây cha hay là giả vờ để tìm cách truyền đạt? Cho dù không biết viện Hán Nôm chê thật hay là để khen lấy nhưng nếu nhân sĩ mà còn phê bình theo lối này, nghe cũng phiền quá đi!
   Trong tinh thần không do dự, an nhiên tự tại trên blog Trần Đông Đức, xin giới thiệu bài thơ này đến với độc giả. Cám ơn blog Hán Nôm của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, cám ơn các vị Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, Tam Uyển Trần Quang Đức, Kim Anh nữ sĩ (nhân chứng) và các vị khác đã đem bài thơ này ra ngoài ánh sáng. Hay quá!
Bản dịch âm, dịch nghĩa, dịch thơ của quý vị quả thật tuyệt vời. Nếu ai đọc được chữ Hán thì càng thấy tuyệt vời hơn. Tuy nhiên nếu chỗ nào khó hình dung về từ ngữ, mọi người có thể quay về nguyên bản để thấy được hồn thơ "phong tình đãng dạng" của bản tình ca Tây Sơn khác hẳn những gì ở tượng đài Nguyễn Huệ mà dân chúng đang thờ.
 Bài thơ này như là một không gian mới đang đợi các nhà phê bình văn học, các nhà nghệ thuật gia, các nhà làm phim đi vào đào bới kho tàng.
Phần 2 bài viết trên blog của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện
                                                                                                                          (xuandienhannom.blogspot.com )


Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân:

     Thưa chư vị, tôi cũng đã từng nhiều năm ngụp lặn trong kho sách Hán Nôm, cũng bận tâm tra cứu các thư tịch cổ về các chuyện "nguyệt hoa hoa nguyệt" đã nhiều phen, song chưa bao giờ có được may mắn như Tam Uyên Trần Quang Đức ở Nhã Nam. Trưa hôm qua, được Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương phô rằng có cái này hay lắm, bèn đứng lại ở sảnh Hàn Lâm viện để truy vấn. Chuyết Chuyết kể câu chuyện – mà chư vị sẽ xem dưới đây. Tôi choáng quá!
    Lúc ấy, trước mặt không có thư tịch, nên Chuyết Chuyết phải dùng cả đôi tay và cả toàn thân để mô tả những điều mà chàng định tả. Tôi càng choáng hơn!
Sáng nay, tại Thư khố Hán Nôm viện, bọn tôi gồm: Tam Uyển Trần Quang Đức, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, U Cốc khách Tô Lan cùng nhau mở 3 văn bản chữ Nho để đối chiếu và xác minh xem Tam Uyển có vì vui chuyện mà tự thêu thùa thêm chữ nào không. Quả thực là đúng như bài của Tam Uyển, không hề có sai nhầm gì. Kíp khi ấy, Kim Anh nữ sĩ cũng có mặt, bèn được bọn tôi mời vào làm chứng!
     Đêm tân hôn của Hoàng đế Quang Trung 33 tuổi, còn Ngọc Hân công chúa vừa 16 tuổi. Trời đất! Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên!
Vậy đã đủ chứng, mời chư vị thưởng thức áng văn chương “vô tiền khoáng hậu” này. Xin đa tạ Tam Uyển Trần Quang Đức đã ưng cho Nguyễn Xuân Diện-blog đưa về hầu chư vị bốn phương. Xin đa tạ Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương đã có bài dịch ra thơ ngay trong trưa nay để kíp hầu chư vị.
Dưới đây là nguyên văn chép từ Trần Quang Đức-Blog:

                      Việt Nam đệ nhất dâm thi Tây Sơn hành
                                                       Tam Uyển Trần Quang Đức

           Bữa trước trong lúc dư nhàn, mỗ có tìm đọc cuốn Tản Ông di cảo (
散翁遺稿mang ký hiệu A.2157) của danh sĩ thời Lê là Trần Danh Án. Đọc đến bài Tây Sơn hànhthì quả thật hãi hùng chi thậm. Ông này là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, thậm chí tỏ thái độ thù hằn và phất uất khi vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Quang Trung Nguyễn Huệ. Nay đọc Tây Sơn hành mới càng thấy rõ điều đó. Có điều, từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được. Nay xin tạm phiên âm dịch nghĩa ra đây, rồi sau xin các bậc thiện Nôm chi quân tử cùng diễn ra thơ quốc âm vậy. (Bài thơ này còn được chép trong cuốn Thù thế danh thư  酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432)

西山
時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠,故有此作.
海宇承平二百年,深宮春色鎖嬋娟,嫣紅錦褥人眼獨淺翠花裀蝶夢纏,不是神仙無對偶,可堪芳景忽流連
紗窗寂寞梅酣雪,邃篽離披柳困煙,花事闌珊春已
殘英落絮總堪憐,鼕鼕何處城邊鼓,羯塵漫塞長安路
亟夏方旋振葉風,深春忽點催花雨,鬚眉無膽控危城
釵扇將身抵驕虜,天王姊婦上公妃,不比尋常花巷主
尊榮貴寵對天潢,奠聘奩儀優特數,雲水騶從翠綺羅
風流儐相紛紳冑,扇夫轎子儘非常,都人見者呼為父
人羡新郎如一口,妾見新郎墜雙手,衣裳熳爛語侏离
骨相崚嶒皮皺古,頂上高堆張角巾,腿間不著韓信褲
其中一物望巍然,直與四肢峙為五,靜似高僧兀坐忘
動如弁子歌身舞,不言不笑不溫存,大吼一聲烈如虎
千鈞飛蹲據酥胸,怒裂羅裙披雪股,此物誰知解刺人
頡頏插入溫柔戶,嬌花枝上狂鶯揉,狂鶯不為嬌花
花膜重重裂繒聲,鉛爐片片飛煙縷,牙咬肉顫汗如油
亂搗胡抽做不住,須臾裙帶落新紅,暗點春籌翻幾度
妾身兩孔似連環,瞬息通成一大圈,捲襦點閱忽驚
頏摩不值半文錢,黑暗既非前度白,縈紆又改舊時
呼鬟拿甕尿一尿,尿水之聲如飛泉,飛泉瀲灧去不
陽風打落桃花片,桃花嬌怯不勝風,風斂花魂猶覺倦
盈盈柳骨瘦三分,褶褶湘羅寬一半,底事雖然不殺人
暮雨朝雲安熟爛,自從奇苦得奇歡,歡後卻忘舊苦艱
不患漁翁揮棹澀,溶溶桃浪漲平灘,左掬右摸探花髓
鶯不停梭蹀不攔,玉癢香搔失害羞,上摟下扭圓團團
風情蕩漾花心急,恐放東君頃刻間,蠻人老實多高興
不會輕挑只會鑽,浮世青雲如過客,一生幾度托春眠
衾裯樂處無夷夏,痴徇空名誤玉顔,不見錦機脂粉隊
西兵去後幾人還,誰將此為語姊妹,嫁郎及早嫁西山

Phiên âm

TÂY SƠN HÀNH


Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác.

Hải vũ thừa bình nhị bách niên, Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên
Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc, Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền
Bất thị thần tiên vô đối ngẫu, Khả kham phương cảnh hốt lưu liên
Sa song tịch mịch mai hàm tuyết, Thúy ngự ly phi liễu khốn yên
Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ, Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên
Đông đông hà xứ thành biên cổ, Yết trần mạn tắc Trường An lộ
Cức hạ phương toàn chấn diệp phong, Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ
Tu my vô đảm khống nguy thành, Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ
Thiên vương tỉ phụ thượng công phi, Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ
Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng, Điện sính liêm nghi ưu đặc số
Vân thủy sô tùng thúy ỷ la, Phong lưu tấn tướng phân thân trụ
Phiến phu kiệu tử tận phi thường, Đô nhân kiến giả hô vi phụ
Nhân tiện tân lang như nhất khẩu, Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ
Y thường mạn lạn ngữ thù ly, Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ
Đính thượng cao đôi Trương Giác cân, Thoái gian bất trước Hàn Tín khố
Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên, Trực dữ tứ chi trì vi ngũ
Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong, Động như biền tử ca thân vũ
Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn, Đại hống nhất thanh liệt như hổ
Thiên quân phi tồn cứ tô hung, Nộ liệt la quần phi tuyết cổ
Thử vật thùy tri giải thích nhân, Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ
Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu, Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ
Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh, Diên lô phiến phiến phi yên lữ
Nha giảo nhục chiên hãn như du, Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ
Tu du quần đới lạc tân hồng, Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ
Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn, Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên
Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc, Hàng ma bất trị bán văn tiền
Hắc ám ký phi tiền độ bạch, Oanh vu hựu cải cựu thời viên
Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu, Niệu thủy chi thanh như phi tuyền
Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản, Dương phong đả lạc đào hoa phiến
Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong, Phong liễm hoa hồn do giác quyện
Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân, Triệp triệp tương la khoan nhất bán
Để sự tuy nhiên bất sát nhân, Mộ vũ triều vân an thục lạn
Tự tòng kì khổ đắc kì hoan, Hoan hậu khước vong cựu khổ gian
Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp, Dung dung đào lãng trướng bình than
Tả cúc hữu mô thám hoa tủy, Oanh bất đình thoa điệp bất lan
Ngọc dạng hương tao thất hại tu, Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn
Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp, Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian
Man nhân lão thực đa cao hứng, Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn
Phù thế thanh vân như quá khách, Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên
Khâm trù lạc xứ vô di hạ, Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan
Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội, Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn
Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội, Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.

Dịch nghĩa:

TÂY SƠN HÀNH

Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này.

Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm
Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặt
Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi
Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc
Không phải là thần tiên không có người sánh đôi
Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến
Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết
Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương
Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết
Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương
Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành
Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An
Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá
Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.
Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành
Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh
Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công
Nào phải bậc chúa hoa tầm thường.
Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc
Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt
Ngựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vóc
Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.
Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng
Người kinh đô thấy đều gọi là ‘cha’
Ai cũng hâm mộ chú rể
Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.
Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ
Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm
Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác
Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín
Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga
Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn
Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọa
Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa
Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn
Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ
Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ
Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết
Vật này ai cũng biết là có thể đâm người
Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm
Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò
Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm
Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải
Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói
Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu
Nện bừa, rút quấy, làm không dừng
Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy
Âm thầm mấy độ xuân qua
Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu
Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn
Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc
Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu
Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia
Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước
Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái
Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn
Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại
Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào
Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió
Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả
Vóc liễu gày đi ba phần
Áo lụa gấp rộng một nửa
Việc này tuy không đến nỗi chết người
Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ
Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng
Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa
Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít
Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng
Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa
Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản
Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng
Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo
Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức
Chỉ sợ rời ‘chúa hoa’ trong khoảnh khắc.
Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng
Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt
Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường
Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân
Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ
Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm
Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao
Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?
Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:
Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.


Nguồn: Trần Quang Đức-Blog

Dưới đây là bản dịch thơ của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương:

Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ
Chốn thâm cung khóa trẻ đương tơ
Gấm tươi phô nét hững hờ
Áo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuân

Khách thần tiên chưa lần sánh mộng
Lòng thơ ngây chợt động tơ vương
Song mai tuyết đọng chán chường
Vườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồ

Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết
Xác còn buông mấy nét tơ sương
Thoắt thôi trống động biên cương
Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An

Buổi cuối mùa gió man lay lá
Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa
Mày râu trốn hết đâu mà?
Để cho má phấn phải ra gán mình

Thân công chúa thình lình thiếp giặc
Thân ấy đâu phải bậc tầm thường
Hoàng cung quốc sắc thiên hương
Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi

Xe như nước ngựa phi giăng gấm
Phù rể trông cũng thậm xênh xang
Lạ lùng tôi tớ khiêng sang
Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa

Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý
Nàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tay
Người đâu trọ trẹ thế này
Da thời nhăn nhúm, dáng rày[2] ngông nghênh

Khăn với áo xông xênh diêm dúa
Giữa hai chân không khố lão Hàn
Bên trong một vật hiên ngang
Ngũ chi sừng sững như đang thượng tòa

Khi lúc lắc tựa là nhảy múa
Chẳng nói năng sấn sổ xông ra
Cọp gầm hùng hổ chu choa
Nghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiên

Xé toạc váy giở miền ngà ngọc
Vật này ôi đã xọc thân hoa
Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra
Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son

Ôi giày xéo hoa don vật vã
Nhụy non tơ rách tã còn đâu
Hơi hùm bốc khói trên đầu
Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân
Chọc bừa đâm quấy tần vần
Giọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voan
Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất
Nhụy thuở nào e ấp xinh xinh
Thoắt thôi hoang hoác thân[3] mình
Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời

Thân vàng ngọc đáng thời nửa cắc
Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa
Ngực non méo mó dật dờ
Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn

Thác đã tuôn cũng khôn níu lại
Cánh hoa đào gió tãi nào vun
E rằng gió giật chăng dừng
Hồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoa

Thân liễu yếu ngót ba phần đủ
Xiêm y thay, thít chửa vừa thân
Mây mưa đã giãi phong trần
Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan

Càng đau lạ lại càng sướng lạ
Sướng này thôi cũng hả đau kia
Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa
Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa

Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ
Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu
Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu
Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng

Cuộc phong tình bướm hoa háo hức
Chẳng nỡ rời một lúc một giây
Vũ phu hứng động dâng đầy
Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân

Cảnh mây nổi một thân làm khách
Khách qua đường chớ trách mộng xuân
Gối chăn đâu cũng xoay vần
Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ

Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ
Gã Tây Sơn liệu có quay về
Việc này nói tỏ cho nghe :
Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây !
-------------

[1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười.
[2] Rày: nay
[3] Theo nguyên bản nên dịch là “cửa”, nhưng nay đổi chữ cho nó đỡ dữ.

*___________________________________________________________________________
Phụ chép: Tiểu sử của Trần Danh Án – tác giả của bài Tây Sơn hành:

Trần Danh Án (1755 – 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định – nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm.
Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế.
Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất.
........................................................................................................................................................
Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên.
Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645


HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..