28 thg 3, 2017

ĐẤT HIẾM - KIM LOẠI QUÝ HƠN VÀNG -THẾ NHƯNG...


Kim loại  Quý hơn vàng" đã giúp TC tăng trưởng phi mã, nhưng dần hủy hoại đất nước này như thế nào ?

Với hồ chất thải rộng không tưởng, và hàng ngàn người dân ung thư, nhưng ngành Công nghiệp này vẫn tiếp tục tồn tại do nhu cầu sản xuất quá lớn.
                           Hãy hiểu “Rare Earth” (Đất Hiếm) là gì?
Đó là loại kim loại có thể xứng đáng với biệt danh “Quý hơn vàng", bởi lẽ nhu cầu sử dụng loại kim loại này toàn thế giới là cực kỳ lớn. Những nguyên tố như terbium được sử dụng trong sản xuất bóng đèn tiết kiệm điện, neodymium được dùng trong turbine khai thác sức gió, lanthanum được dùng trong sản xuất ắc quy cho xe hơi chạy điện.

Loại Đất Hiếm mang tên Dysprosi.

Đất Hiếm còn được sử dụng trong sản xuất điện thoại, máy tính, iPod, màn hình phẳng LCD, máy giặt, máy chụp X-quang, và thậm chí cho hệ thống dẫn đường cho hỏa tiễn, và cả tàu vũ trụ nữa. Ngành Công nghiệp dựa trên những loại Đất Hiếm này ước tính có giá trị 2 tỷ Bảng Anh, chiếm 5% tổng GDP toàn cầu.

Mỏ khai thác Đất Hiếm lớn nhất thế giới:

Đó là mỏ Bayan Obo, tại TC, mỏ Đất Hiếm lớn nhất trên thế giới, đã hoạt động suốt 5 thập kỷ nay rồi.
Mỏ quặng Đất Hiếm khổng lồ Bayan Obo.

Đá ở đây chứa đầy Đất Hiếm lẫn trong quặng sắt. Với trữ lượng lớn như vậy, mỏ này là nguồn cung cấp Đất Hiếm hàng đầu trên thế giới. Việc sản xuất đồ điện của phương Tây dựa nhiều vào nguồn khoáng chất từ mỏ này. Năm 2008, TC cung cấp 139.000 tấn Đất Hiếm cho ngành Công nghiệp ở mọi nơi, chiếm 97% sản lượng Đất Hiếm trên toàn thế giới.

Như ở Trung Đông có dầu mỏ, thì ở TC lại rất giàu Đất Hiếm. "Đây không chỉ là quê hương Đất Hiếm tại TC, mà còn là của toàn thế giới nữa !", như một người làm việc tại khu mỏ này nhận định.
Nhưng ngành Công nghiệp khai thác khổng lồ như vậy, thì hẳn phải có mặt trái của nó. Chính chính sách quản lý môi trường lỏng lẻo tại đất nước tỷ dân này, đã khiến cho việc sản xuất Đất Hiếm trở nên dễ dàng hơn, khi mà giá thành sản xuất chỉ gần bằng 1/3 với những đối thủ cạnh tranh khác. Theo một báo cáo về ngành Công nghiệp Đất Hiếm năm 2010, đất nước này "gần như không có quy trình xử lý chất thải ô nhiễm nào đạt tiêu chuẩn cả !".


                                        Chất thải từ nhà máy chế biến Đất Hiếm.
Cũng như nhà máy nguyên tử, dự án chế biến Đất Hiếm cũng cần những biện pháp nghiêm ngặt, để ngăn ngừa ảnh hưởng nặng nề của nó tới môi trường, theo lời của Peter Karamoskos, một nhà Nghiên cứu về các biện pháp an toàn nguyên tử của viện Nghiên cứu An toàn Nguyên tử, và Phóng xạ Úc.
Những ô nhiễm từ mỏ Đất Hiếm Bayan Obo này là lý do tại sao những nông dân tại những đồn điền trồng cây, và những vùng đất canh tác quanh khu mỏ, đều bỏ nhà cửa, và ruộng vườn để tìm kiếm công việc mới. Như anh Liu, một cựu nông dân nay đã là công nhân khai thác quặng, nói rằng: Anh có thể kiếm được số tiền nhiều gấp 5 lần làm nông với công việc khai thác ở đây.


Một công nhân tại khu mỏ Đất Hiếm Bayan Obo.

Một công nhân khác, anh Guo Fu Qiang cho biết: "Tiền được trả khá là hậu hĩnh, nhưng chủ dự án không trả thêm đồng nào cho chúng tôi, khi phải làm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, cũng như môi trường cực kỳ độc hại, hơn nữa không ai trong chúng tôi có bảo hiểm tai nạn cả !”.
Một người khác làm tại nhà kho nói rằng: Anh sẽ không bao giờ đặt chân vào khu mỏ kia, hay những khu vực khai thác Đất Hiếm, dù có được trả bao nhiêu tiền đi chăng nữa: "Chẳng khác gì tự sát !. Bạn làm việc ở đó thì sớm muộn gì cũng bị ung thư mà chết thôi !".



Không rõ là làm ở nhà kho thì sống lâu hơn được bao lâu, khi mà toàn bộ môi trường xung quanh khu mỏ khổng lồ này đều nhiễm độc nặng nề !.
Đúng vậy, nguồn thu nhập ấy cũng có cái giá đắt khác phải trả, một môi trường bị hủy hoại hoàn toàn. Khu dân cư cũng như các khu vực xung quanh dần bị ô nhiễm. Toàn bộ vùng lân cận trở thành khu vực chết, những cỗ máy chế biến quặng được vứt đó đây, khiến cho toàn bộ vùng đất gợi lên cảm giác tan hoang sau một cuộc chiến.

Những ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường:
Phía Bắc TC, gần biên giới Mông Cổ, một hồ chất thải tồn tại nhiều thập kỷ nay, đang đe dọa tới nguồn nước sông Hoàng Hà, nguồn nước quan trọng của hơn 150 triệu dân.
Tại tỉnh Quảng Đông phía Đông nam TC, người ta đang cố gắng cải tạo những cánh đồng lúa, và những suối, kênh nước tại đây, những thứ đã bị hủy hoại bởi nguồn acid cực mạnh rò rỉ từ những khu khai thác Đất Hiếm gần đó.

Chính quyền TC vẫn liên tục từ chối những mối lo ngại mà cộng đồng quốc tế, cũng như Tổ chức Thương mại Thế giới nêu ra, rằng: Những hậu quả để lại từ việc khai thác Đất Hiếm tới môi trường sẽ cực kỳ nặng nề.
Tất cả những ngôi làng nằm giữa thành phố Bao Đầu, và sông Hoàng Hà, đều đã được di tản, và tái định cư, khi có những báo cáo cho rằng: Tỉ lệ ung thư tăng cao đột biến, mà nguyên nhân không gì khác chính là do việc khai thác, và tinh chế Đất Hiếm.

Những nhà máy chế biến những loại kim loại này thải ra rất nhiều loại chất thải độc hại, dễ thấy nhất là thorium phóng xạ nặng. Hàng tấn acid sulfuric đậm đặc được sử dụng để phá vỡ cấu trúc hóa học của quặng Đất Hiếm, từ đó mới có thể tinh chế được Đất Hiếm nguyên chất. Những thứ chất thải kinh dị đó được thải hết vào một hồ chứa gần sông Hoàng Hà, ngay ngoại ô phía Đông thành phố Bao Đầu, một hồ chứa rộng tới hơn 10 km2.


Một hồ lớn rộng khuất tầm mắt, chứa đầy những chất thải nhầy nhụa, đen đúa, và độc hại tột cùng. Bên bờ là hàng tá những đường ống thải vẫn đều đặn đổ xuống hồ những phần thừa từ phương pháp chế biến Đất Hiếm của những nhà máy gần đó. Mùi sulfur nồng nặc, kèm theo những âm thanh ồn ào của những chiếc ống xả thải không ngớt hoạt động, làm cho nơi đây mang lại cảm giác như của một địa ngục trần gian !.
Bạn có thể nhìn thấy hình ảnh hồ chất thải này từ Google Earth, và nếu bạn phóng to lên, bạn sẽ thấy những đường ống bên bờ hồ, được nối từ những nhà máy chế biến Đất Hiếm.
Thứ chất thải ấy độc hại thì không phải bàn tới rồi, nhưng những thành phần phóng xạ như thorium trong đó, là nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư lá lách, phổi, và nhiều bệnh khác nữa, nếu con người ăn uống phải loại nước nhiễm độc đó. "Trước khi những nhà máy ấy được xây dựng nên, nơi đây là những cánh đồng bạt ngàn dưa hấu, cà chua, và cà tím", một trong những người dân còn bám trụ nơi đây, Li Guirong thở dài nói.

Tất cả bắt đầu từ năm 1958, khi mà Công ty Sắt và Thép Bao Đầu bắt đầu khai thác, sản xuất những loại Đất Hiếm nơi đây. Và cũng từ khi ấy, cái hồ chất thải này bắt đầu hình thành.
Đến cuối những năm 1980, mùa màng nơi đây bắt đầu tàn lụi. "Mùa màng có hoa, nhưng đến khi kết thành quả, thì sản phẩm thường bị teo nhỏ, thậm chí là có mùi hôi thối nữa !". Mười năm sau, dân làng đã phải chấp nhận thực tại rằng: Hoa màu không thể mọc lên tại nơi đây nữa. Làng Xinguang Sancun, cùng với nhiều ngôi làng gần những nhà máy tinh chế đất hiếm kia, đã dừng hoạt động trồng trọt.


Cây trong khu vực còi cọc, thiếu sức sống.

Nhiều nghiên cứu nêu ra rằng: Nguồn gốc của mọi chuyện chính là Đất Hiếm, và quá trình khai thác, chế biến Đất Hiếm kia. Cư dân của thành phố Bao Đầu, "thủ đô Đất Hiếm của thế giới", đã phải hít thứ không khí chứa đầy acid sulfuric, bụi than, suốt nhiều năm trời. Động vật nuôi chết, mùa màng không còn, khiến người dân bỏ nhà cửa, dân số thành phố từ con số 2.000 giảm xuống chỉ còn vài trăm người.
Nhiều người dân còn lưu lại nơi đây phàn nàn rằng: họ nhiễm rất nhiều bệnh tật: đau tứ chi, tiêu chảy, loãng xương, và các vấn đề tim phổi. Gần như mọi gia đình nơi đây đều nhiễm bệnh.
Chính phủ không trợ giúp gì nhiều trong việc này. Họ được hứa hẹn đền bù, nhưng cũng chưa đầy đủ và thỏa đáng. Việc tái định cư cũng được nhắc tới, nhiều khu chung cư đã được dựng lên cách chỉ vài km với khu nhà cũ của họ.


Đường ống dẫn chất thải ra ngoại thành thành phố.

Nhưng những tòa nhà ấy gần như vẫn trống trơn. Chính phủ yêu cầu người dân mua quyền ở tại những tòa nhà đó, nhưng những nhà ấy sẽ không được truyền tiếp cho đời con cháu của họ.
Một số người cố gắng kiếm lời từ những chất thải trong hồ kia, bởi lẽ những chất thải ấy vẫn còn lưu giữ lại phần nào Đất Hiếm, những phần đó sẽ được bán lại cho nhà máy tái tái chế với giá 300 USD/tấn.
Nhưng chính phủ đã đặt lệnh ngăn cấm chuyện khai thác, và bán lại số chất thải trong hồ. Một số lượng người đã bị đem ra xét xử với mức án lên tới 10 năm tù vì hành vi này.

Theo Genk.  ./.

26 thg 3, 2017

XA QUÊ NHỚ NƯỚC MẮM


image

Một cô ký giả Mỹ chuyên viết về ẩm thực so sánh nước mắm Thái Lan và nước mắm Việt Nam thế này: Cả hai đều làm từ cá cơm (anchovy), nhưng nước mắm Thái mặn hơn và có mùi "nặng" hơn.

image

Cô Mỹ này nhận xét trật. Trật không phải do lưỡi của cô, mà trật vì cô so sánh con gà với con vịt.
Nước chấm làm từ cá thì nhiều nước làm: Thái Lan, Malaysia, Lào, Campuchia, Trung Cộng, Philippines, Indonesia, Hàn Quốc…Người Nhật còn lấy cả mực làm nước chấm.

image
Nước mắm ở Phú Quốc
Cá nào cũng đem làm nước mắm được hết. Về mặt khoa học, đó chỉ là "chặt" nhỏ protein của cá thành acid amin do tác dụng của enzyme trong ruột cá, từ đó mới tạo ra hương và vị đặc trưng của nước mắm.

Nước mắm mỗi nơi mỗi vẻ

Hầu hết nước chấm làm từ cá của nước Châu Á có độ đạm khoảng 10, và họ quen với hương vị nước mắm như thế. Một vài loại nước mắm Thái có độ đạm khoảng 20, nhưng Việt Nam chuộng nước mắm đạm cao, có khi lên tới 30 - 40 độ.
Thái Lan và Việt Nam thường dùng cá cơm, một loại cá biển, nhỏ cỡ ngón tay trỏ để làm nước mắm. Nhưng có cả hơn trăm loại cá cơm, phân bổ mỗi vùng mỗi khác. Mỗi loại khi làm sẽ cho ra nước mắm có vị có hương khác nhau.

http://www.xn--bomai-xqa.com/

Ở Việt Nam có khoảng 6-7 loại cá cơm: cơm than, cơm đỏ,sọc tiêu, sọc chì, sọc phấn,…nhưng chỉ có 3 loại đầu được dùng nhiều vì cho chất lượng nước mắm ngon hơn.
Cũng một loại cá cơm, nhưng cá mỗi vùng lại ăn rong rêu khác nhau. Rồi cá mùa này gầy, cá mùa khác béo, năng suất ra đạm (phân rã cá) cũng khác. Tùy theo cách làm và cũng tùy thuộc loại cá, mà thời gian lên men kéo dài 4-6 tháng, có khi kéo dài cả năm hoặc hơn.
Hơn nữa thời tiết khí hậu mỗi nơi mỗi khác, ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành hương vị nước mắm. Chính cái "nắng gió" trời cho quanh năm này mà nước mắm Phan Thiết, Nha Trang trở nên lẫy lừng. Với Phú Quốc, ông Trời còn biệt đãi hơn nữa, vì ngoài thời tiết, cá cơm vào mùa to béo tươi ngon, chượp ra đạm nhiều. Chỉ có điều phải chượp lâu, có khi hơn cả năm, mà chượp lâu hương mắm càng đậm đà.

image 
Những vùng khác yếu thế hơn, nhưng họ cũng biết đối phó với thời tiết, để có được những kỹ thuật làm nước mắm khác nhau, và cứ thế cha truyền con nối.
Có thể ép đạm, nhưng không thể ép hương 
Nước mắm đạm cao thì thời gian ủ chượp phải lâu hơn, nhưng "chân lý" này không phải lúc nào cũng đúng. Người ta có thể dùng thêm enzyme để thúc đẩy sự phân giải protein cá thành đạm amin nhanh hơn, từ một năm còn 6 tháng, có khi nhanh hơn. Mà cũng tùy nguyên liệu nữa: cá nhỏ, cá dập nát phân giải nhanh hơn, cá tươi cá còn nguyên phân giải chậm hơn…

image

Nhưng hương thì khác, hương cần thời gian ủ chượp khá lâu, một năm hoặc hơn, để vi khuẩn kỵ khí phân giải chất béo và protein thành các chất dễ bay hơi để tạo ra mùi hương đặc trưng của nước mắm, và vị nước mắm cũng "đầm" lại, cái mà người ta gọi là hậu vị (after-taste) của nước mắm.

image 
Nước mắm Thái hầu hết đều sử dụng thêm enzyme để tăng tốc lên men, ra nước mắm nhanh. Họ cần năng suất, nhưng hương chưa kịp ngấu sẽ có mùi hơi ngai ngái.

image 
Ngư dân Phú Quốc
Cách làm nước mắm của người mình thường có tỉ lệ muối cao (3 cá 1 muối), còn các nước khác tỉ lệ muối ít hơn. Muối ít, lên men nhanh hơn, ra nước mắm lẹ hơn, và dĩ nhiên hương cũng kém hơn…Còn muối cao thì thời gian ủ chượp lâu hơn, có khi cả năm hoặc hơn, nhưng hương nước mắm ra đậm đà hơn. Nước mắm truyền thống "thứ thiệt" của Việt Nam thường hơi mặn hơn là vì thế.
Công nghiệp ép truyền thống
Làm nước mắm truyền thống thì quanh năm vất vả, nắng mưa dãi dầu, chăm mấy cái thùng còn hơn chăm heo đẻ, nhưng làm nước mắm công nghiệp thì nhanh cái rẹt, mỗi ngày ra cả vài chục ngàn lít là thường. Chỉ cần mua nước mắm thấp đạm về pha loãng, rồi thêm phụ gia hóa chất, đóng chai dán nhãn là xong.
Vị nước mắm là do acid amin do phân giải từ cá mà ra. Nước mắm công nghiệp (NMCN) chỉ cần cho thêm các chất tạo vị như bột ngọt, siêu bột ngọt (I+G)...
Hậu vị của nước mắm là do đủ loại acid amin từ cá tạo thành. NMCN làm gì có hậu vị.

image 
Màu nước mắm là do chuyển hóa các chất đường, lipid và protein trong cá mà thành. NMCN chỉ cần thêm màu nhân tạo caramel, carmine, Brown HT...
Hương nước mắm là do nhiều chất dễ bay hơi hợp thành do phân giải cá mà ra. NMCN chỉ cần thêm hương nhân tạo. Hương cốm, hương nhài, hương nếp… Hương cà cuống còn nhái được, thì nhái hương nước mắm là chuyện…nhỏ.
Độ sánh của nước mắm là do protein tan trong nước tạo gel. NMCN chỉ cần thêm chất tạo sệt (thickening agents) như CMC, xathan gum...
Độ mặn của nước mắm phải cao để ức chế vi khuẩn gây hư (spoilage bacteria). NMCN không cần mặn cao, vì đưa thêm chất bảo quản benzoate, sorbate vào. Còn muốn mặn dịu hơn nữa thì thêm đường hóa học như aspartame và acesulfam K.
Độ đạm (tổng) nước mắm là protein cá phân giải. NMCN là nước mắm đạm thấp pha loãng. 

image 
Muốn tăng độ đạm muôn vàn thủ thuật, tử tế thì bổ sung đạm từ lúa mì (protein được thủy giải để dễ hòa tan), bá đạo thì thêm nước phụ phẩm bột ngọt…
Nước mắm công nghiệp ngọt đầm hương dịu, sóng sánh màu hổ phách,nói chung, thích gì chiều nấy. Vì thêm các phụ gia hóa chất được phép dùng trong thực phẩm, nên nước mắm công nghiệp về mặt an toàn thực phẩm, không có gì đáng than phiền. Còn bá đạo đến cỡ nào cũng tùy nhà sản xuất.
Nước mắm hải ngoại
Tôi có thể nói, nước mắm "Made in Thái Lan" ở bên Mỹ hay bên Châu Âu đa số là nước mắm công nghiệp. Thực ra nước mắm Thái cũng có loại zin, nhưng cũng chỉ cỡ 20 độ đạm là cao do khẩu vị của dân họ đã quen như thế. Còn nước mắm truyền thống Việt Nam loại ngon khoảng 30-40 độ đạm.

image 
Ở nước ngoài, khai báo về độ đạm thường "nấp" vào trong cái bảng nhỏ xíu gọi là "thành phần dinh dưỡng" (nutrition facts) dưới dạng protein. Con số này phải chia cho 6,25 mới ra độ đạm. Người tiêu dùng hầu như không để ý chuyện này.
Có hãng quảng cáo, chỉ có anchovy extract (nước cốt cá cơm) và muối, nhưng lại có thêm đường ăn (sugar). Mấy nhà thùng nước mắm truyền thống Việt Nam mà biết chuyện "nước mắm có đường" chắc phải bở vía. Có đường, chỉ vài ba tháng nước mắm sẽ xuống màu, mất hương. Thế thì nước mắm đó là gì? Hoặc là dùng đường hóa học, hoặc là xài phẩm màu và hương nhân tạo.
Đến chơi nhà bạn bè ở nước ngoài, tôi thấy nhiều bà xài nước mắm Thái. Sao vậy, chê nước mắm Việt à? Không phải, tôi xài nước mắm Thái cho an toàn. An toàn thiệt không?

image
Cục Khoa Học Y tế (DMS-Thái Lan) năm 2013, đã khảo sát chất lượng mắm với 471 mẫu của 118 nhà sản xuất nước mắm trên thị trường Thái. Kết quả ghi nhận 45,4% mẫu không đáp ứng tiêu chuẩn. Đa số có độ đạm thấp hơn so với ghi nhãn, hàm lượng acid glutamic (bột ngọt) cao, và đáng ghi nhận là 4,5% chứa chất bảo quản benzoate trên mức cho phép. Loại nước mắm pha (mixed fish sauce), hay gọi theo kiểu Việt Nam là nước mắm công nghiệp, vi phạm nhiều hơn.
An toàn thực phẩm là chuyện vô vàn, rủi ro có thể xảy ra bất cứ chỗ nào, chỉ có thể hạn chế mà thôi. Xuất được chai nước mắm vào Mỹ, vào Châu Âu cũng chẳng dễ gì qua được đôi mắt sấm sét của cơ quan thẩm quyền bản xứ.

image 
Trở lại câu chuyện cô ký giả Mỹ so sánh nước mắm Thái và nước mắm Việt. Dựa trên hình ảnh mà bài báo minh họa, cô ký giả đã không nhận ra rằng, cả 2 chai nước mắm đều sản xuất tại Thái Lan. Nước mắm Thái mà cô nếm là nước mắm zin, khoảng 20 độ đạm, nên có vị hơi mặn và hơi nồng. Còn chai nước mắm Việt (Made in Thailand) là nước mắm công nghiệp, nên ít mặn và dịu là đúng rồi.
Nhìn về đường cố lý…
Đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, một người Việt tại Mỹ đã đăng ký nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc tại đây, và cho đến nay vẫn dùng thương hiệu Phú Quốc thoải mái. Công ty này mua nước mắm sản xuất tại Thái Lan, vận chuyển qua Thẩm Quyến hay Hồng Kông gì đó và đóng chai tại đấy, rồi xuất đi tứ phương. Nước mắm Phú Quốc thứ thiệt là thế này hay sao?

image 
Hiện công ty này cũng có một xưởng làm nước mắm với quy mô nhỏ tại Phú Quốc. Nước mắm sau đó được xuất đi đâu đó để pha chế và đóng chai. Theo quy định về chỉ dẫn địa lý, nước mắm Phú Quốc phải được sản xuất và đóng chai dán nhãn ngay tại Phú Quốc.
Không riêng gì Phú Quốc, Phan Thiết cũng đã có Chỉ dẫn Địa lý cho nước mắm. Không đơn giản chỉ là đóng chai tại nguồn, mà nguyên liệu làm nước mắm phải là cá loại gì, đánh bắt ở đâu, chất lượng muối thế nào, ủ chượp ra sao, thùng chượp bằng gỗ loại gì,…. Và phải chịu sự kiểm soát lẫn nhau về tuân thủ quy định này mới được phép dán nhãn Chỉ dẫn Địa lý, chứ không phải cứ nước mắm sản xuất tại Phú Quốc hay Phan Thiết là được dán nhãn ấy.
Ai muốn mua nước mắm truyền thống thì căn cứ vào logo Chỉ dẫn Địa lý mà mua. Còn độ đạm, theo tôi cỡ 25 - 30 độ là tuyệt rồi. Còn chai nào ghi "nước mắm nhĩ" hay "nước mắm cốt" thì quên đi. Quảng cáo xạo đó! Nước mắm nhĩ giống như thóc giống. Có ai mang thóc giống đi rao bán bao giờ. Thực ra, độ đạm của nước mắm nhĩ cũng chẳng cao. Được trời đãi, cá cơm mập ú như ở Phú Quốc, mà "nhĩ" ở đây cũng chỉ cỡ 30 độ. Muốn nâng độ đạm, phải đem phơi và đổ lại vào thùng chượp để rút thêm đạm trong cá.

image 
Không phải chỉ có nước mắm Phú Quốc hay Phan Thiết mới là ngon. Nước mắm mỗi vùng mỗi miền đều có hương vị riêng của nó. Anh bạn tôi, quê Quảng Trị, lưu lạc xứ người, mỗi lần ăn thịt heo luộc, bánh bột lọc, bánh ướt, …lại nhớ nước mắm Mỹ Thủy. Cái tên nước mắm vùng miền nghe lạ hoắc, vậy mà anh ta lại nhớ da diết.
Nước mắm không chỉ là hương và vị, nó còn mang theo cả ký ức của tuổi thơ, của một thời bình yên chỉ biết ăn và học. Hương vị nước mắm thấp thoáng trong lời của bản nhạc "… Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi…"(Thuyền Viễn Xứ , Thơ: Huyền Chi, Nhạc : Phạm Duy).
Xa quê mà dùng nước mắm công nghiệp thì buồn lắm, phải không?

Vũ Thế Thành

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..