7 thg 8, 2019

ĐI CHÙA HƯƠNG

      Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp hơn sáu mươi năm trước, diễn tả cuộc hành trình chùa Hương bằng tâm tình ngây thơ của cô thiếu nữ mười lăm tuổi. Theo gót ông, tôi cũng đi thăm viếng chùa Hương, một giấc mơ xưa mà tôi ngỡ rằng chẳng bao giờ thành sự thật.Trang bị không phải túi thơ bầu rượu mà bằng một cái ba lô nặng trĩu, gồm hai cái máy hình, mấy ống kính và phim đủ loại. Tôi hy vọng sẽ chụp được vài tấm hình, đem về xứ Mỹ, khoe với bạn bè những hình ảnh quê hương xinh đẹp.


         Hôm qua, chân ướt chân ráo đến Hà Nội, chúng tôi đi thăm Văn Miếu. Thấy có bán mấy bộ áo tứ thân, yếm đào, thắt lưng thiên lý, khăn vành nhung tím với cái đuôi gà ngộ nghĩnh. Diễm, cô bạn đồng hành trẻ tuổi thích quá, vòi vĩnh chồng mua cho mình một bộ, để ngày mai diện đi chùa Hương, mặc vào chụp ảnh. Ẩn, anh chàng bác sĩ trẻ, hiền như bụt, lúc nào cũng cười cười, chiều vợ nên móc tiền ra chi. Thấy Diễm hồn nhiên vui vẻ, lòng tôi cũng phấn khởi vô vàn. Trí tôi tưởng tượng ra biết bao nhiêu là cảnh đẹp chùa Hương, có Diễm làm một cô người mẫu xinh đẹp. Mắt cô đen tròn, môi cô mọng. Da cô trắng như trứng gà bóc, dáng cô mình hạc xương mai... Cô thật là yêu kiều trong chiếc áo tứ thân với cái đuôi gà phất phơ bên má. Tôi sẽ có dịp tạo ra nhiều tác phẩm nhiếp ảnh để đưa cô bé chùa Hương từ thế giới thi ca, đi vào thế giới nhiếp ảnh. Mặc dầu trí óc tôi phần lớn dành riêng để mơ những giấc mộng hão huyền, nhưng giấc mộng tạo hình cô bé chùa Hương này thật đầy hy vọng. Ðêm ấy, sau khi kiểm soát đầy đủ những dụng cụ trong ba lô, tôi hy sinh, không tham dự cuộc đi chơi đêm Hà Nội. Tôi cần gìn giữ sức khỏe để ngày mai chịu đựng cuộc hành trình vất vả.

       Tôi cư ngụ gần trung tâm thành phố, khách sạn nhỏ nhưng lịch sự, sang trọng và tiện nghi không kém gì những khách sạn xứ Mỹ. Tắt đèn phòng, tôi luyến tiếc mở màn cửa sổ, dí mũi vào cửa kính nhìn ra đường để thưởng thức một chút hương vị của Hà Nội về đêm. Bên kia công viên, người đã vắng. Trên hè phố, một vài gánh hàng rong còn qua lại. Dưới đường, xe đạp, xe gắn máy không còn đông đảo như ban ngày. Ngắm phố một lúc, tôi không muốn đi ngủ nữa, đồng hồ mới chỉ chín giờ đêm, tôi lò mò khóa cửa phòng, xuống phố đi dạo một mình. Vừa bước ra khỏi thang máy, cô nhạc sĩ dương cầm nhìn lên mỉm cười, hai bàn tay trắng như ngó sen, thoăn thoắt dạo trên những phím ngà quen thuộc. Ban chiều, sau khi cô đàn bản "Lara's song" theo lời tôi yêu cầu, tôi nán lại bên cô nói chuyện tầm phào, biết được cô là giáo sư dạy nhạc, ban đêm chơi đàn cho khách sạn. Thấy cô vui vẻ, dễ chịu, các bạn tôi đã kéo đến yêu cầu cô đàn hết bản này đến bản nọ. Chú gác cửa khách sạn, mặc bộ đồng phục màu xanh biển, mũ đồng màu, trên áo có những hạt nút vàng bóng nhoáng trông ngộ nghĩnh như những chú lính trong tuồng "nutcracker". Thấy tôi bước ra, chú chạy tới chào, mở cửa cho tôi ra đường.

     Ði vòng vo qua vài khu phố, tôi kiếm được khu bán trái cây ở cuối phố hàng Giầy. Mấy chị bán hàng thấy tôi chào mời rối rít. Trái cây đủ loại bày trên những cái mẹt lớn. Nhãn lồng thơm phức cột từng chùm. Những trái thanh long đỏ hồng ngày xưa là sản phẩm đặc biệt của Nha Trang bây giờ đầy đường Hà Nội. Măng cụt, mãng cầu, sầu riêng, cam, quít và trái mơ chồng chất lên nhau. Tôi chỉ thích nhãn nên mua mấy ký, hí hửng xách về khách sạn. Sau khi ăn một bụng đầy trái nhãn, tôi lại thay áo quần, chải răng, thoải mái bò lên giường. Lim dim đôi mắt, tôi thả hồn theo ông Trang Tử, hóa thành cánh bướm trắng, chập chờn bay vào giấc mơ hoa. *
Tiếng chuông đồng hồ báo thức reo chát chúa làm tôi bàng hoàng tỉnh giấc. Mỗi buổi sáng khác, thế nào tôi cũng bịt tai, kéo chăn che kín đầu, ỉ ôi rên rỉ một hồi lâu mới lồm cồm bò dậy. Hôm nay, tôi hăng hái nhảy xuống giường, lôi tấm mền khỏi người anh Tuấn hối thúc:
"Dậy lẹ lên đi ăn sáng không thôi trễ!"
Anh hé một con mắt ra nhìn:
"Mệt quá, phải chi hồi tối đừng đi Karaoke thì đỡ biết mấy!"
Tôi ngạo nghễ nhìn anh:
"Hối hận thì đã trễ rồi, tí lên xe ngủ tiếp để có sức mà vác máy hình."
Anh giẫy nẩy:
"Thôi hôm nay anh không chụp hình, đi chơi tay không cho khỏe."
Nghe câu anh nói, lòng tôi áy náy buồn bã lắm. Tôi tiếc giùm anh những cơ may hãn hữu, sợ anh mất đi những tấm hình đẹp. Nhiều lúc anh nghe lời tôi năn nỉ, mang máy theo, bị nặng nề khó chịu, than đau lưng, đau cổ, mặt mày méo xẹo, tiu nghỉu mất vui, nên lần này tôi không dám nói năng gì cả. Tôi lẳng lặng thay y phục, khoác ba lô xuống phòng ăn. Hôm nay khách sạn chìu khách, dọn thức ăn điểm tâm từ ba giờ sáng. Thức ăn đầy đủ như mọi buổi sáng khác chỉ thiếu có món phở.            Ãn sáng xong, tôi ngồi trước phòng khách, chờ một hồi lâu không thấy Ẩn và Diễm. Tôi tự nghĩ, chắc cô bé sửa soạn kỹ quá nên giờ này vẫn chưa xong. Chỉ còn mấy phút nữa là xe tới, chị hướng dẫn áy náy đi lui đi tới trước cửa thang máy, anh Tuấn đòi chạy lên phòng ngủ để kiếm. Cửa thang máy vừa mở thì thấy Ẩn và Diễm lọt tọt chạy ra. Cô bé chùa Hương áo lụa, đuôi gà chả thấy đâu, chỉ thấy một cô bé hốt hoảng, hốc hác, bơ phờ vì mới ngủ dậy. Cô nhìn chúng tôi, bẽn lẽn:
"Bọn em quên để đồng hồ báo thức."
Ẩn thì cứ cười cười chả nói năng gì.
Xe vừa mới đến, anh Tuấn xách mấy trái chuối và phó mát đưa cho Diễm:
"Ðây, cô cầm lên xe ăn cho đỡ đói."
        Anh Tuấn dễ thương như vậy đó, khi đi chơi chung, anh không những chỉ săn sóc cho vợ mà còn lưu tâm đến tất cả mọi người.
Thấy Diễm không có thì giờ trang điểm và mặc áo tứ thân để đi chùa Hương tôi cũng hơi buồn. Diễm bây giờ mặc quần tây, áo cánh, mái tóc thề rủ dài mướt như một tấm lụa phủ ngang lưng. Mặt mày cô xanh xao thiếu ngủ, buồn xo. Cô giống như cô Nga, người thiếu nữ trong bài thơ Nguyên Sa:


Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
như con mèo ngái ngủ trên tay anh...
đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình...


       Rõ ràng là chỉ vài phút sau khi trèo lên xe, Diễm dựa đầu vào vai Ẩn, ngái ngủ như một chú mèo con.Tôi và Tuấn trèo ra tận băng cuối, không ai thích ngồi băng cuối vì sợ đường xấu xe dằn, trừ hai đứa tôi ra. Tôi và Tuấn là những kẻ phiêu lưu, chúng tôi đưa nhau đi chơi đầu ghềnh cuối bể nên chẳng sợ gì một chút xíu nhọc nhằn. Ghế trên chúng tôi nhường cho nữ nhi yếu đuối và các cụ thâm niên. Ngồi sau tôi dễ dàng quan sát những điều xảy ra trước mắt.
         Trong lúc chờ xe chuyển bánh, tôi quan sát Hà Thành bừng tỉnh giấc nồng qua cửa kính. Bên vỉa hè, những người bán hàng rong bắt đầu đến, quang gánh nhịp nhàng trên đôi vai. Một bà cụ già tóc bạc trắng, đặt hai chiếc thúng lớn bên đường. Bà lấy ra cái mẹt, xếp đặt từng bó hành ngò tươi xanh mơn mởn. Trong tiệm, sau lưng bà, một bà cụ đang làm bánh cuốn. Bà cụ này mặc áo nâu, tóc bạc quấn trong chiếc khăn vành nhung đen, quanh cổ đeo một chuỗi ngọc xanh, những hạt ngọc lớn bằng viên bi giữa ngực. Tôi nhớ rằng ngày xưa thuở nhà còn khá giả, mẹ tôi cũng có một chuỗi ngọc xanh tương tự. Sau ngày tôi di cư sang Mỹ, ba tôi mất, mẹ phải bán chuỗi ngọc để nuôi các em tôi, cho đến ngày tôi bắt được liên lạc, có thể gởi chút ít tiền về giúp đỡ gia đình. Bà cụ này chắc cũng khá giả vì có được một gian nhà ngay phố chính để làm tiệm ăn.

       Bà thoăn thoắt đổ vá bột lên tấm vải căng trên miệng nồi hấp. Tráng bột thật mỏng và đậy cái vung lại. Trong vòng ba mươi giây, bà lấy một thanh tre dài, nâng tấm bánh mỏng tanh, đặt lên cái khay nhôm. Bà lấy chút xíu nhân thịt, bỏ vào giữa tấm bột, cuốn lại tròn trĩnh. Diễn tả thì lâu lắc thế nhưng động tác của bà rất là nhanh nhẹn. Chỉ trong vòng năm phút, bà đã làm ra cả chục cái bánh cuốn trên dĩa. Nóng hổi, thơm phức mùi hành chiên. Bà mỉm cười, hàm răng đen nhánh, đặt dĩa bánh trước mặt một người khách đang kiên nhẫn chờ đợi. Có lẽ bụng đang kêu rột rột và nước dãi đang ứa đầy mồm, như cảm giác tôi đang có.



        Trên đường, các cô gái bán hoa tươi bắt đầu đến từ một chợ hoa nào đó. Các cô đạp xe đạp, mặc áo bà ba, đội nón lá. Sau lưng cô là một thúng hoa đầy. Hoa cúc vàng, hoa huệ tây, hoa hồng, thược dược. Các cô nhanh nhẹn, len lỏi qua dòng xe cộ khắp ngả đường đã tràn ngập người đi.

         Xe bắt đầu chạy, chốc lát đã ra ngoại ô Hà Nội. Dọc đường lộ, có những khu chợ nhỏ, tụ họp đông đảo. Tôi chăm chú nhìn những món hàng bày ra trên đất. Xe chạy chậm để tránh những rổ rá, gồng gánh bạn hàng bày cả ra đường. Rau cải, bầu bí, thịt tươi, cá sống, gà vịt và cả mấy con lợn nằm ọt ẹt trong rọ tre. Qua khỏi khu chợ, ruộng lúa, ao đầm trải dài hai bên xa lộ. Trời tờ mờ sáng, sương mù giăng trắng xóa, xa xa, những con đường đất nhỏ chạy giữa đám ruộng xanh. Dọc đường, hàng cây cao, thân mỏng manh, lá lăn tăn rủ lướt thướt như cây lệ liễu, nhạt nhòa trong sương sớm.
Xe chạy vun vút trên đường gập ghềnh. Lòng tôi đảo điên bối rối vì chỉ mong được dừng lại để chụp mấy tấm hình. Mỗi lần thấy mặt mày tôi nhăn nhó đau khổ, anh Tuấn lại đưa tay lên miệng ra dấu cho tôi yên lặng, đừng xin xe ngừng sợ làm phiền kẻ khác. Sau một hồi lâu, chịu không nổi nữa, tôi nói nhỏ với chị hướng dẫn nếu thuận tiện cho xe ngừng vài phút để tôi chụp mấy tấm ảnh. Anh tài gãi gãi cái đầu bờm xờm.
"Ðể tôi lui lại cái cầu hồi nãy, có mấy bụi tre, chỗ đó đậu xe rộng rãi!"
       Lòng mừng khấp khởi, tôi mở ba lô, lấy cái máy hình đeo lên cổ, len lỏi ra hàng ghế trước đứng sẵn chờ xe ngừng. Xe vừa ngừng, tôi nhảy xuống chạy một mạch lên chiếc cầu bắc ngang sông. Hai đầu cầu tre xanh mọc rậm rạp.


      Dưới sông, một cái chòi tranh nho nhỏ, nổi cao trên mặt nước, nâng đỡ bằng những nhánh tre khô. Chắc đây là chòi đựng lưới hoặc những dụng cụ làm chài. Một anh ngư phủ mặc áo quần rách rưới, chống chiếc thuyền nan nho nhỏ từ từ tiến đến bên chòi. Nghe tiếng người, anh ngoảnh mặt nhìn lại chỗ tôi đứng. Tôi nâng máy hình, bấm thật nhanh mấy tấm rồi lật đật trở lên xe. Lòng tôi buồn buồn trước cảnh quê nghèo, tôi lẩn thẩn nghĩ đến tấm áo rách vai và ánh mắt của chàng ngư phủ. Từ khi trở về quê hương, biết bao lần tôi phải nhìn những bờ vai áo rách, những chiếc nón xơ vành, những bàn chân bùn lầy nứt nẻ để xót thương cho thân phận nhược tiểu của dân tộc mình.Xe lại chạy bon bon trên đường thiên lý, chả mấy chốc trời đã sáng hẳn. Người hướng dẫn dặn dò:
"Ai có hỏi anh chị từ đâu đến thì cứ nói là ở miền Nam ra tham quan chứ đừng nói thêm gì nữa. Ai có mời mọc mua sắm gì, nếu không có ý định mua thì đừng nhìn hoặc trả giá. Dân ở đây họ hay dây dưa lắm."
       Nghe tiếng đối thoại ngoài cửa xe, nhìn ra, tôi thấy có người cỡi xe Honda, đi kèm theo xe chúng tôi, đang kêu gọi điều gì đó với anh tài xế. Chị hướng dẫn giải thích: những người chủ ghe, chạy ra tận đường lộ để tranh giành khách.
Ðến bến Ðục, chúng tôi được đưa xuống một chiếc thuyền gỗ nhỏ chút xíu, phải lót thêm mấy tấm ván ngang mới có đủ chỗ ngồi. Chúng tôi ai nấy đều hồi hộp vì thấy thuyền quá khẳm.


      Ghe rời bến Ðục, trôi ra giữa dòng nước lênh đênh. Nhà cửa hai bên bắt đầu thưa thớt. Trên dòng nhiều chiếc thuyền con lướt nhanh thoăn thoắt, mỗi chiếc chèo bởi một chị đàn bà. Các chị đội nón lá, có chị bịt mặt, chỉ chừa hai con mắt. Những người này làm việc trên dòng suối Én. Họ chuyên chở những tảng đất sét lớn, nạy lên từ dưới lòng sông bởi những chàng thanh niên đang dìm mình tận bụng trong dòng nước. Sau khi các cô cập chiếc thuyền đầy những tảng đất sét ấy vào bờ suối, một toán thanh niên khác nâng đất ra khỏi thuyền để đắp lên bờ suối. Chú lái đò cho tôi biết rằng sau một ngày làm việc, mỗi nhân công ấy được lãnh lương chừng độ một đồng rưỡi tiền Mỹ kim.Thuyền cập bến chùa Trình. Người hướng dẫn mời chúng tôi lên bờ, cúng Trình để xin phép vào chùa Hương. Các anh chị Phật tử mua hương hoa, đi van vái các bàn thờ Phật. Tôi xách máy hình rảo quanh chùa, ngắm mấy cây đa, rể dài lòng thòng, tàng lá rậm rạp. Tôi lững thững đi ngược bờ sông, dừng lại ngắm những người đắp đê. Họ cười nói huyên náo mặc dù lao lực mệt mỏi dưới nắng. Trông họ đầy sức sống, đầy nghị lực, đang vươn lên tìm sự sinh tồn.

      Trở lại bên chùa Trình, thấy mọi người hoang mang chờ thuyền. Chị hướng dẫn bảo chúng tôi:"Chủ ghe muốn đòi thêm tiền nên làm khó dễ, bắt đi bằng hai chiếc thuyền nhỏ."
Nhìn xuống bến, hai chiếc thuyền rỉ sét, nằm cạnh bên nhau, mỗi chiếc chở chừng độ bốn người, trong khi đoàn tôi gồm mười tám mạng. Chủ ghe bảo rằng mỗi chiếc thuyền nhỏ ấy chở được mười người. Chiếc thuyền lớn kia phải chở tới "ba mươi nhăm người mới lấy lại vốn." Chị hướng dẫn một lần nữa lại phải kỳ kèo, mặc cả. Sau khi điều đình tiền bạc xong thì chiếc thuyền lớn trở lại rước chúng tôi lên đường.



         Lênh đênh trên dòng suối Én, tuy gọi là suối nhưng dòng nước lớn như một con sông. Từ chùa Trình trở đi, nước bắt đầu trong như lọc, nhìn được cả rong rêu dưới đáy. Trong lòng suối có nhiều mảnh đất sói, tròn như cái mâm. Chú lái đò cho biết rong rêu những chỗ ấy bị chết vì người ta cắm điện xuống lòng suối để giết cá. Hai bên bờ suối, những rặng núi thấp, cây cối xanh tươi, lác đác vài ngôi chùa nho nhỏ, mái cong rêu phủ, ẩn hiện sau đám cây. Một rặng núi chạy dài, uốn khúc như lưng con rồng nổi trên mặt nước. Từ bờ suối đến chân núi đồng ruộng xanh tươi, chú bé phụ lái đò mới có mười tuổi nhưng tinh khôn lắm, chỉ cho tôi cách phân biệt ruộng lúa tẻ và lúa nếp. Chú nói chuyện láu lỉnh, vì chú đã ra đời sớm, sống lẫn lộn trong kiếp thương hồ, tiếp xúc với người hành hương bốn phương tám hướng.

      Thuyền trôi chầm chậm trên dòng, gió hiu hiu thổi, tiếng nước róc rách qua mạn chèo, phong cảnh tuyệt vời như những bức tranh thủy mạc.
Thỉnh thoảng tôi thấy một người câu cá, đứng đơn độc trên con thuyền nhỏ. Một chị đàn bà ngồi giặt chiếu bì bõm, trên chiếc thuyền vắt đầy những chiếc chiếu cạp điều. Thấy cảnh đẹp, tôi đứng giữa lòng thuyền để chụp hình, thuyền tròng trành làm thiên hạ la lên oai oái:
        "Coi chừng lật thuyền người ta, có cái thân bồ tượng mà
        không chịu ngồi yên, chết cả đám bây giờ.
"
        Tôi phì cười, nhìn xuống đáy suối, nước chỉ sâu chừng hơn một thước, nhưng tôi đành ngậm cười ngồi xuống. Chỉ vì đi với một đám người nhát gan mà tôi không có nhiều hình ảnh suối Én, một dòng suối thơ mộng nhất trong cuộc đời du lịch của mình.

    Tôi ngồi yên trên thuyền, nắng mai ấm trên da, thò tay ra khỏi mạn thuyền, dòng nước lùa qua kẽ tay mát rượi. Đàn chim nhỏ trong rừng ríu rít, chỉ nghe tiếng mà không thấy hình. Có những dòng lạch tách ra từ suối chính, vòng quanh co, biến mất sau rừng cây. Trong một nhánh lạch, sen hồng khoe sắc trước ngôi cổ tự. Một cặp vịt đi lạch bạch trên bờ, chợt nhảy tòm xuống nước, duỗi cánh đập nước tung tóe. Đàn vịt con theo gương mẹ, vội vã nhảy theo, có chú lật đật, trượt chân lăn cù xuống nước, những chú vịt con cũng vẫy vẫy cặp cánh nhỏ, thưa thớt lông vũ, lội quanh quẩn bên mẹ, rúc cái đầu vàng tơ óng xuống nước tìm mồi.
Thấy tôi say sưa nhìn đàn vịt, chú bé lái thuyền chỉ tay vào dãy núi xa xa, nơi có những căn lều tranh lụp xụp:
     _Dân trong ấy chuyên nuôi vịt để sống, còn trồng trọt thêm khoai, sắn, chuối để ăn.
        Một bức tranh quê đang vẽ ra trước mắt tôi. Nơi đây sông hồ lớn rộng, chim bay, cá lặn, gió thổi mây ngàn, hồn lãng tử của tôi tha hồ tung hoành, phiêu bạt.
Thuyền đi qua nhiều ngọn núi. Chú lái thuyền chỉ hòn núi nhỏ, có đám cây um tùm trên ngọn, bảo đây là "oản gà xôi." Quả thật, trái núi tròn vun như một mâm xôi, những chùm cây um tùm trên ngọn trông giống như một con gà luộc.


        Tôi bảo Tuấn:
         "Thơ ông Nguyễn Nhược Pháp có câu :  ' Qua núi oản gà xôi, bao nhiêu là khỉ ngồi...'
                                 oản gà xôi phía bên kia còn đám khỉ thì đang ngồi trên thuyền này."

          Anh Tuấn lườm tôi, ra dấu bảo đừng nói lớn, sợ các cụ nghe được thì mất lòng. Tôi cụt hứng, không ba hoa nữa, tiu nghỉu ngắm núi "con voi phục," lòng thầm khen ông Nhược Pháp, ông đặt ra được một bài thơ tuyệt vời lại chính xác địa hình địa vật. Bài thơ này có thể dùng làm tài liệu hướng dẫn chuyến hành hương thơ mộng này. Mặt trời đã lên cao, không khí bắt đầu nóng nực, thuyền cũng vừa cập bến chùa Hương.


              Dọc bờ suối, san sát những sạp hàng bán nước, thức ăn và của tế lễ. Bạn hàng thấy khách đến, nhao nhao mời mọc. Anh Tuấn mua cho tôi một chai nước uống, tôi khoác ba lô lên vai rảo bước theo các bạn đồng hành tiến lên con đường lát đá, cắt ngang một cánh rừng thưa.Ngoài cổng chùa, một dãy nhà nhỏ, trống trải, có những sạp gỗ trải chiếu hoa. Đây là dãy nhà trọ cho khách ngủ qua đêm. Mùa hội chùa Hương đã hết nên khung cảnh êm ả, vắng lặng. Tôi đi vòng quanh chùa, tò mò quan sát nhiều gian phòng thờ khác nhau, đại khái gian nào cũng có lư hương, bàn thờ, nhang đèn, tượng Phật, tượng Thần, Quan Âm Bồ Tát, ông Di Lặc, ông Quan Công, bà Thị Mầu, Thị Kính... không biết đâu mà kể cho hết! Tôi hì hục leo lên mấy chục bậc cấp, len lỏi vào các ngõ ngách quanh co. Tình cờ tôi thấy một nhà sư trẻ, ngồi lắt lẻo trên một bức tường thấp bên hông chùa. Thầy chăm chú dùng kim chỉ, vá tấm áo cà sa bạc thếch của mình. Tôi nấp trong bụi cây, kéo ống kính dài, len lén chụp hình thầy. Dường như có linh tính, thầy ngẩng mặt lên nhìn phía bụi cây tôi núp. Bị bắt quả tang, tôi bấm vội tấm hình, mỉm cười vẫy tay chào, nhảy ra khỏi lùm cây, chạy vội xuống đường chính, trước khi bị quở. Chụp hình bên xứ này tôi hay bị phê bình hoặc quở trách. Tính tôi thích chụp hình nên thấy cái gì cũng chụp, lâu ngày tánh tình trở nên lì lợm, da mặt trở nên dày dạn chai đá. Cách đây mười phút, có tên rỉa rói:

"Ðồ quỷ sứ, ăn mày đẹp đẽ gì mà cũng chụp."
       Tôi mặt mày tỉnh bơ, giả bộ mình là người Đại Hàn, chả biết thằng cha khỉ mốc kia nói cái gì mà nhi nhô loạn xị!
     Ðường từ từ lên dốc, đá mòn nhẵn, tảng thấp tảng cao, có tảng lắc lư xiêu vẹo, màu đá nâu nhạt, xám nhạt hoặc hồng, vân đá bạc chạy chằng chịt rất đẹp. Đến gần chùa Giải Oan, tôi bắt đầu cảm thấy nóng nực và mệt mỏi. Ẩn và Diễm nhảy thoăn thoắt trên mấy bậc thềm kêu tôi:
"Cô lên chùa này coi, có suối nước mát rửa mặt cho khỏe."
        Tôi nghĩ đến những bậc cấp lên chùa, lắc đầu không muốn bước. Nghỉ mệt xong, tôi cương quyết đứng lên, tiến về hướng động Hương Tích. Thỉnh thoảng tôi dừng bước, vừa nghỉ vừa ngắm cảnh núi non hùng vĩ chung quanh. Từ đường lộ chính, rẽ ra nhiều con đường nhỏ, khi lên đồi, khi xuống dốc, dẫn đưa tới những ngôi chùa xa xôi, chênh vênh, hiểm trở trên sườn núi, ẩn hiện lờ mờ trong khói sương. Tôi dừng lại quán nước bên đàng, uống trái dừa tươi, đãi chị hướng dẫn một chén chè khoai mài. Giải khát xong, tôi uể oải đứng dậy, anh Tuấn thương hại tôi mỏi mệt, tình nguyện đeo ba lô. Tôi giữ một cái máy hình bên ngoài, lâu lâu thấy cảnh đẹp, gắng gượng sức tàn, nâng máy lên bấm cò mấy cái.
      Gần đến động Hương Tích, chị hướng dẫn đứng lại bên một sạp hàng. Sau cái bàn gỗ thấp kê sát đường, một thầy đồ mặc áo dài the đen, đầu đội khăn đóng, đeo kính lão, chòm râu bạc, phất phơ đạo mạo, đang ngồi viết chữ Tàu. Tôi ngồi xuống tảng đá bên đường, nhìn những tờ sớ vàng đỏ treo trên vách trong lúc chị hướng dẫn nhờ ông viết sớ. Tôi nhớ lại bài thơ "Ông đồ già" của thi sĩ Vũ Đình Liên:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua...


        Vì ảnh hưởng của bài thơ này, xót xa cho ông đồ già tội nghiệp ấy, không muốn để cho "mực đọng trong nghiên sầu," tôi bèn xin anh Tuấn tiền, nhờ anh thuê ông đồ viết giùm tôi mấy lá sớ để tôi cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe cho mẹ tôi. Trong lúc anh ngồi trước mặt thầy, tôi lợi dụng "nước đục thả câu," bấm cò máy ảnh nhanh như gió.
        Rời ông đồ già, tôi cầm ba lá sớ đỏ chi chít chữ Tàu, hớn hở quên cả mệt, trèo thêm mấy trăm bực cấp nữa. May thay, đây là chặng đường cuối, qua một cái cổng đá, cửa Ðộng Hương Tích hiện ra đen ngòm dưới dốc. Trên đường xuống động, thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại, chụp hình giùm cho những khách thập phương khác.


         Ngoài động, nhan nhản những sạp hàng bán hương đèn, hoa quả, tràng hạt. Trong động, khói hương mù mịt, thạch nhũ như những giọt nến khổng lồ chảy xuống từ trên trần cao, tạo thành những hình thù kỳ bí. Không rành cung cách lễ Phật, tôi đi theo chị hướng dẫn. Thấy chị lạy; tôi cũng lạy; thấy chị vái, tôi cũng vái; thấy chị để mấy lá sớ trên bàn thờ, thắp nhang, kê lên trán lâm râm cầu nguyện, tôi cũng lật đật làm theo. Trong lúc tinh thần bối rối, tôi chỉ nhớ cầu Trời Phật cho được trúng lô độc đắc của California. Cầu xong, tôi đứng dậy, lòng tràn đầy hy vọng, bước theo chị ra đốt sớ trong một cái lò than đen đủi đặt ngay ngoài cửa động.
Trước khi rời động, tôi nhìn lên dốc, thấy bóng anh Tuấn in lên nền trời, giữa một vùng ánh sáng chan hòa. Ánh sáng viền trên những bậc đá đen chạy dài xuống tận nơi tôi đứng, tôi đưa máy ảnh lên, vội vàng thu lấy tấm hình trước mặt. Hình ảnh anh đứng trong nguồn sáng ấy có thể là câu trả lời của Trời Phật, nhắc cho tôi biết rằng mình nên vui hưởng sự bình an trước mặt, trong vòng tay che chở và săn sóc của anh chăng?

       Ðường xuống núi, mọi người vui vẽ chuyện trò, ai cũng sung sướng thỏa mãn vì trong đời mình, ít nhất cũng một lần thăm được Động Hương Tích. Anh Tuấn rất hãnh diện thấy tôi đã chiến thắng được tất cả sự mệt mỏi, lười biếng, nóng nực để hoàn thành cuộc hành hương. Anh luôn miệng khen ngợi tôi làm cho tôi rất khoái chí vì ngỡ rằng mình giỏi thật. Chúng tôi có ngừng lại nghỉ ngơi vài chặng, chiêm ngưỡng những người dân quê, gánh gồng tre, củi, tranh, nặng nề di chuyển xuống núi. Chuyện trò với du khách từ Bắc Âu hoặc châu Úc đến và giả vờ điếc khi bị một anh chàng bán chim kiểng càu nhàu vì chúng tôi không dừng lại mua chim cho hắn.Xuống thuyền rời bến chùa Hương, một lần nữa chúng tôi lại lững lờ trôi trên dòng suối Én. Tôi ngắm lần cuối cùng những rặng núi thấp chung quanh. Mùi nắng nồng nàn thơm da thịt, mồ hôi mặn chảy trên mắt môi. Gió chiều hiu hiu thổi làm mọi người buồn ngủ, mắt lờ đờ. Không ai hào hứng trò chuyện nữa vì đã thấm mệt. Tôi cất máy vào ba lô lặng lẽ ngắm những cô thiếu nữ chèo thuyền thoăn thoắt xuôi ngược trên dòng. Tôi liên tưởng đến những con dã tràng miệt mài xe cát, những con kiến lửa cặm cụi kéo hạt cơm, thời còn bé tôi thường say sưa nhìn ngắm. Đời những con dã tràng và con kiến ấy sẽ đi về đâu? Đời những người con gái ấy sẽ đi về đâu.



     Ngày mai, tôi đi về khung trời mênh mông khác, hành trang là kỷ niệm, và xấp hình ảnh quê hương. Một ngày nào đó trong đời, nhìn lại mấy tấm ảnh xưa, chắc thế nào lòng tôi cũng xao xuyến não nề, vẩn vơ tự hỏi:

              Hỡi người muôn năm cũ
              Hồn ở đâu bây giờ?

       Hình ảnh cô bé chùa Hương vẫn là một bóng hình bất diệt trong tâm tư tôi. Ngày xưa, cô đi đôi guốc cao trên lối đời mộng tưởng. Ngày nay tôi đi giày Reebok, vai đeo máy hình, tha thẩn mấy dặm đường quê. Tôi cũng như cô, nhưng mỗi người dệt riêng một giấc mộng.
______________________________________________________________
Mời Nghe Bài hát "Em đi chùa Hương"
https://www.youtube.com/watch?v=iAm47PwPmRI

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..