Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn chợ Mỹ ngọn tỏ, ngọn lu…
(Ca dao)
Trước thềm xuân mới Quý Mão, xin mời bạn bè hồi tưởng lại hình ảnh Sài Gòn ở những năm tháng huy hoàng với cái tên “Hòn ngọc viễn đông”, cái hư danh vang bóng một thời đó nay đã mai một ,chìm vào quên lãng nhưng vẫn là Sài Gòn một thời để nhớ với những ai sinh ra và lớn lên tại thành phố này. Bài viết dài ,thật dài nhưng không dư thừa, tình tiết phong phú ,giọng văn truyền cảm gây xúc động sâu sắc với những người đồng trang lứa ,có thể khi viết bút ký này tác giả đã trên dưới 90 tuổi đời.
TUỔI THƠ Ở QUẬN 4, SÀI
GÒN
Tuy tôi sinh ra ở tỉnh Bình Dương nhưng tôi sống phần lớn cuộc
đời ở thành phố Sài Gòn, ngoài một thời gian ngắn đi dạy học ở Trà Vinh. Ngay
trong 6 năm dạy học ở Biên Hòa, mỗi tuần tôi chỉ ở lại đó có một đêm. Sau này
ra nước ngoài, chỉ sau 22 năm xa quê hương tôi lại trở về với Sài Gòn hàng năm,
mỗi lần vài tháng. Tôi đã chứng kiến sự thay da đổi thịt của thành phố này qua
bao thăng trầm của thế sự.
Vì tình hình mất an ninh ở quê nhà trong những năm khởi đầu
cuộc chiến tranh Việt Pháp, ba tôi đã đem vợ và đứa con đầu lòng là tôi từ giã ấp
Bến Đồng Sổ, xã Lai Uyên, quận Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một lên Sài Gòn sinh sống
từ năm 1946. Ở đây má tôi đã mất đứa con thứ hai tức là em kế tôi vì bạo bệnh.
Nó tuy thuộc dòng họ Huỳnh nhưng vì thời cuộc lúc đó phải lấy họ mẹ là họ Trần.
Ban đầu, gia đình tôi mướn nhà ở Phú Nhuận. Ba tôi đi may
cho bác ba tôi có tiệm may trên đường Matelot Manuel (Tôn Đản bây giờ) thuộc quận
6 (bây giờ là quận 4), ngay chỗ tiệm thuốc bắc của ông thầy Sói sau này. Tôi
còn nhớ lúc đó tiệm của bác tôi là nhà sàn. Ba tôi phải đi bộ từ Phú Nhuận sang
quận 6 để đi làm.
Sau này, ba tôi có một
ít tiền nên mua một căn nhà lá trong con hẻm gần mặt đường Matelot Manuel, đối
diện chợ Cầu Cống. Quận 4 thời đó còn rất hoang vu. Đa số nhà cửa tập trung
quanh chợ Xóm Chiếu, dọc theo đường Tôn Đản. Phía trong chợ Cầu Cống là đồng ruộng
chạy tới đường Tôn Thất Thuyết. Từ đường Tôn Đản, người ta nhìn thấy đường Bến
Vân Đôn xuyên qua cánh đồng bát ngát ở giữa. Những buổi trưa,tôi thường trốn giấc
ngủ trưa bắt buộc đi vô một trong hai ngôi ruộng đó để bắt cá thia thia dù biết
rằng lúc về sẽ bị ăn đòn.
Tuổi thơ của tôi chỉ quanh quẩn ở trong quận 4: đi tắm sông ở
Bến Súc, đá banh ở sân cát kho 11, bắt cá ngoài ruộng hay đi coi chớp bóng ở rạp
Nam Tiến. Thỉnh thoảng ba má tôi dẫn tôi và thằng Quan (em kế sau đứa đã mất)
đi qua Chợ Cũ ăn cơm thố. Có lần ba tôi dẫn tôi đi xem chớp bóng ở rạp Catinat,
trong một con hẻm của đường Tự Do. Hôm đó rạp chiếu một phim nói tiếng Pháp mà
không có phụ đề Việt ngữ, tôi chẳng hiểu gì cả. Khi hết phim, đèn bật sáng tôi
nhìn quanh thấy khán giả đều là ông tây, bà đầm.
Lớn lên chút nữa, tôi
có những chuyến đi chơi xa: Sở Thú hay Vườn Tao Đàn. Tôi còn nhớ có một lần tôi
theo ba má đi xem Kẹt Mết (Hội Chợ) ở vườn Tao Đàn, khi vừa vào cửa, một số
nhân viên hội chợ chăn tôi lai và trao cho tôi một cái bong bóng và nhiều bọc
bánh kẹo. Tôi ngạc nhiên và mừng rỡ.về những món quà bất ngờ. Sau này tôi mới
biết hôm đó tôi là người khách thứ 1000 hay 10.000 gì đó của hội chợ nên được tặng
quà kỷ niêm. Những năm tôi còn nhỏ của đầu thập niên 1950, Noel trong ký ức của
tôi là những lồng đèn hình ngôi sao màu đỏ treo trước nhà những người theo đạo
Thiên Chúa, cây thông thật cao với các bóng đèn nhỏ đủ màu lấp lánh và hang đá
bằng giấy bồi trong đó có hình tượng Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ Maria, các Thiên Thần,
mục đồng và con chiên...ở nhà thờ Xóm Chiếu. Tôi theo nhóm bạn con nít từ xóm
Hòa Bình, gần chợ Cầu Cống, Khánh Hội đi bộ xuống nhà thờ đó ở gần bến đò Long
Kiễng để xem người ta làm lễ. Lúc về nhà
thì đã quá muộn và ba tôi chờ sẵn ở cửa để cho tôi một trận đòn nên thân vì tội
đi chơi khuya. Thế mà, năm nào cũng vậy tôi vẫn trốn nhà đi xem lễ Noel dù biết
rằng về sẽ bị đòn.
Lúc độ 8, 9 tuổi mỗi lần Tết đến thì tôi được ba tôi may cho
một bộ pyjama mới mà chiều 30 Tết đã được bận đi chạy chơi với các bạn trong
xóm. Trong túi, rủng rỉnh một ít tiền lì xì sớm tôi chạy tìm những sòng bầu cua
cá cọp để đặt cược.
Ngoài ra, trong những ngày Tết, một thú vui khác là ở nhà đọc
báo Xuân. Ngoài những bài viết bên trong về phong tục truyện ngắn, ký sự,
thơ...về mùa Xuân thì hình bìa bên ngoài làm tôi chú ý nhất. Có tờ báo đănngoài
bìa hình các nghệ sĩ cải lương, ca sĩ hay minh tinh điện ảnh như Thanh Nga,
Thanh Thuý, Thẩm Thuý Hằng...Nhưng tôi thích nhất là trang bìa báo Xuân Tiếng
Chuông của ông Đinh Văn Khai vì thường in tranh vẽ hình người đẹp của hoạ sĩ Lê
Trung. Gương mặt toàn mỹ của người đẹp đó ám ảnh tâm hồn tôi từ tuổi ấu thơ.
THỜI HỌC SINH Ở SÀI GÒN
Sau khi đậu bằng tiểu học, ba má tôi gởi tôi học ở lyceum
(tiếng Latin nghĩa là trường trung học) Nguyễn Văn Khuê trên đại lộ Nguyễn Thái
Học, gần chợ Cầu Muối.
Từ đệ thất tới đệ tứ, tôi đi bộ từ nhà đến trường theo lộ
trình đường Đỗ Thành Nhơn, quẹo trái theo đường Bến Vân Đồn, lên cầu Ông Lãnh rồi
xuống đại lộ Nguyễn Thái Học. Bận về tôi theo lộ trình ngược lại. Có rất nhiều
học trò quận 4 đi học chung trường với tôi nên dọc đường chúng tôi trò chuyên
vói nhau quên cả mỏi chân.
Sau khi tôi đậu bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp, ba má tôi thưởng cho tôi một chiếc xe đạp mới ráp Từ đó tôi khỏi phải lội bộ đến trường nữa. Tôi tiếp tục học lớp đệ tam và đệ nhị ở trường Nguyễn Văn Khuê đến khi thi Tú Tài 1.
Tôi đậu bằng Tú Tài 1 hạng bình thứ (assez-bien) nên khi nộp
đơn vào học lớp đệ nhất trường công lập Chu Văn An thì tôi được nhận. Từ đó,
khi đi học tôi mặc đồng phục quần xanh, áo trắng, trên ngực áo gắn phù hiệu tên
trường.
Ban đầu, tôi đi xe đạp
đến trường và thường đi chung với một người bạn cùng lớp tên Phạm Trọng Ái, nhà
ở đường Huỳnh Quang Tiên, quận 2 (đường Hồ Hảo Hớn, quận 1 bây giờ). Lộ trình
chúng tôi, sau khi tôi ghé nhà anh Ái để đi chung là Võ Tánh, đại lộ Cộng Hoà,
đường Thành Thái và cuối cùng là đường Hùng Vương. Trường Chu Văn An nằm bên
hông nhà thờ Ngã Sáu.
Một kỷ niệm đáng nhớ
là khi chúng tôi đi trên đường Võ Tánh, thường gặp một cô nữ sinh trường nữ
trung học Đức Trí (gần rạp hát Quốc Thanh), đi bộ đến trường. Cô có dáng đi rất
đẹp và khi chúng tôi chạy qua khỏi cô, ngoái nhìn lại thì gương mặt cô cũng đẹp.
Ái xúi tôi xuống xe “cua” cô ta. Sau vài lần do dự, một hôm tôi bạo gan, ngừng
xe đi theo cô ngỏ lời làm quen. Nhưng cô ta không thèm trả lời và không nhìn
tôi mà cứ đi thẳng. Tôi “quê” lắm nhưng chỉ có thằng bạn thân mình chứng kiến
chứ không có ai khác nên cũng đỡ ngượng. Tôi chỉ là một anh học trò, quần xanh,
áo trắng đi xe đạp chắc không phải là “típ” người mà người đẹp lưu ý. Tôi rủa
thằng bạn mình đã xúi dại.
Về sau, tôi không đi
học bằng xe đạp nữa mà dùng xe buýt. Từ nhà tôi đi xe buýt từ ngả ba Tôn Đản và
Trình Minh Thế đến công trường Diên Hồng (công trường Quách Thị Trang bây giờ).
Chỗ này là bến xe buýt trung ương. Tất cả các tuyến xe buýt đều đi và đến tại
đây. Tôi còn nhớ hệ thống xe buýt ở Sài Gòn ngày xưa gọi là Công Quản Chuyên Chở
Công Cộng mà quản đốc là trung tá Trần Thiện Thành (anh hay em của đại tướng Trần
Thiện Khiêm).
Tôi đi tuyến đường chạy ngang trường Chu Văn An. Những lần đầu
thì tôi xuống tại trạm bên kia đường qua khỏi trường một đoạn. Sau này, bắt chước
các bạn học chung trường, khi xe chạy chầm chậm ngang trường thì chúng tôi nhảy
xuống. Dĩ nhiên theo quán tính, chúng tôi phải chạy tới một đoạn nữa mới dừng lại
để khỏi té. Thật là một hành động điên rồ của tuổi trẻ.
Cuối năm học, tôi và
các bạn cùng lớp Trần Văn Thám (sau này học kỷ sư công chánh), Nguyễn Cao Thuận
(du học Canada, kỷ sư tiến sĩ điện) , Trương Tuấn Dzỉnh (du học Úc) và Phạm Đặng
Long Cơ ( học y khoa, bây giờ là bác sĩ phụ khoa ở nam Cali) được nhận thưởng của
tổng thống Ngô Đình Diệm. Tuy phần thưởng chỉ là những cuốn sách đại học do cơ
quan Asia Foundation tặng cho bộ Giáo Dục nhưng đối với chúng tôi đó cũng là kết
quả của một năm miệt màu trên ghế nhà trường. Hơn phân nửa số học sinh lớp tôi
sau này được học bỗng du học ở ngoại quốc. Riêng tôi vì hoàn cảnh gia đình lúc
đó khó khăn nên từ chối học bỗng Colombo đi du học Canada để ở lại học ở Việt
Nam. Trớ trêu thay 25 năm sau tôi cũng tới Canada nhưng với tư cách là người tỵ
nạn.
Chương trình lớp đệ nhất
B (12 C ngày nay) tức là ban toán rất nặng. Về toán chúng tôi phải học 7 môn:
hình học, hình học giải tích, đại số, số học, lượng giác, cơ học và thiên văn.
Khó nhất là môn số học. Nhưng chúng tôi được cái lợi là toán có hệ số 4. Vì đã
giải hết những bài tập trong cuốn Lebossé, nên khi thi môn toán thời hạn 3 giờ
thì tôi chỉ mất 1 giờ rưởi thì đã làm xong nên nộp bài ra về. Gay nhứt là môn
triết gồm Đạo Đức Học và Luận Ly Học. Tôi còn nhớ đề thi triết năm đó là phán
biệt cảm tình và tình cảm trong triết học.
ĐỜI SINH VIÊN Ở SÀI GÒN
Tôi đậu chính thức
vào ban toán trường Đại Học Sư Phạm (nằm trong top ten), đậu dự khuyết ngành kỷ
sư điện trung tâm Kỷ thuật Phú Thọ và rớt Học Viện Quốc Gia Hành Chánh . Muốn
vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh phải giỏi hai sinh ngữ Anh, Pháp nhứt là phải
làm bài nghị luận triết học thật hay. Năm đó đề thi triết học vào trường này là
“Phân tích quan điểm cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Mấy môn đó không phải
sở trường của tôi.
Một thời gian sau,
Trung Tâm Kỷ Thuật Phú Thọ gọi tôi nhập học nhưng tôi chọn học Đại Học Sư Phạm
một phần vì tôi thích môn toán, phần khác vì vào đó mỗi tháng tôi lãnh 1.500 đồng
học bỗng (trong khi lương tháng của một người lính là 900 đồng).
Ba năm đại học của tôi trôi qua nhanh chóng và trơn tru, đến năm 1965 thì tôi tốt nghiệp.Trong thời gian đó có nhiều xáo trộn chính trị. Phong trào Phật Giáo nổi lên chống chế độ Ngô Đình Diệm với lý do chế độ này đàn áp Phật Giáo. Những cuộc biểu tình diễn ra liên tiếp tại Sài Gòn và sinh viên tham gia trong đó cũng nhiều. Sau cùng, ngày 1/11/1963 các tướng lãnh đứng lên lật đổ chính quyền và giết chết hai anh em ông Diệm.
Mấy ông tướng này xuất
thân từ thời còn quân đội Pháp ở Việt Nam nên ăn chơi lịch lãm. Họ cho phép mở
lại vũ trường và cho tổ chức những dạ vũ ( soirée dansante, thường gọi là
boom). Và cũng thành phần sinh viên tham gia đông nhứt. Cuối tuần nào cũng có
nơi tổ chức boom, tuần này đại học văn khoa mở, tuần sau đại học dược khoa mở,
người nào có nhà rộng thì mở bal de famille tại nhà. Mỗi lần như vậy ban tổ chức
bán thiệp mời. Cuối tuần nào tôi cũng diện đồ veste, khi thì thắt cravate, khi
thì thắt noeud tham dự không bỏ lỡ dịp nào. Nhưng tiền đâu đủ dự hết tất cả các
boom, tôi và các bạn khi nào không tiền thì leo rào vào. Khi vào trong thì thiếu
gì đào người khác dẫn vào chúng tôi mượn đỡ để nhảy.
Những ngày lễ lớn như
Noel, tết Tây, tết Ta, tuổi trẻ độc thân tôi như các người bạn cùng lứa đi tìm
đối tượng. Đêm Noel năm nào chúng tôi cũng đến nhà thờ Đức Bà không phải để đi
xem lễ mà để đi tìm những bóng hồng. Những ngày trước Tết tôi với những thằng bạn
còn trong tuổi “độc thân vui tính”như câu ông bà thường nói “trẻ vui cảnh chợ,
già vui cảnh chùa” thường đi đến chợ hoa Nguyễn Huệ hay chợ tết Bến Thành để
tìm một chút gì ấm lòng.
Thường những ban nhạc Black Caps, The Rocking Stars, The
Blue Stars...phụ trách những đêm dạ vũ lớn. Nếu không thì những bal de famille
chơi nhạc máy.
Bạn cùng xóm với tôi là anh Đào Hữu Thọ (kỷ sư thuỷ lâm, hiện
ở Pháp) thường đi boom với tôi. Ngoài ra, anh Phạm Văn Phước còn có tên là Phước
Voi vì anh cao lớn, to con hay là Phước Xích Lô vì nhà anh ở Nha Trang có cho
thuê xích lô, là bạn cùng lớp với tôi ở Đại Học Sư Phạm cũng thường có mặt thường
xuyên ở các đêm dạ vũ. Khi tôi sang Canada một thời gian thì nghe tin Phước mất
ở Nha Trang.
Thường, bal được khai mạc bằng một bản passodoble mà ban nhạc
hay đánh bản Espana Cani. Khi nhạc trổi lên điệu slow thì piste đầy nghẹt các cặp
nhảy vì ai cũng có thể nhảy bản này, chỉ cần ôm nhau và lúc lắc theo điệu nhạc.
Nhìn một cặp nhảy slow người ta có thể đoán họ là hai kẻ yêu nhau hay hai người
xa lạ. Khi ban nhạc chơi valse hay tango thì sàn nhảy thưa người vì hai điệu đó
cần kỷ thuật cao hơn. Vui nhộn nhứt là điệu twist, cả sàn nhảy nhấp nhô theo điệu
nhạc giựt.
Năm 1992, sau khi bảo lãnh vợ con từ Việt Nam qua Montréal,
vợ chồng tôi và một đứa em kết nghĩa sang nhà hàng Long Mỹ ở đường Jean Talon,
đổi tên là nhà hàng Chim Sẻ giống tên cũ của quán nhậu của vợ chồng tôi trong
những năm 1981-1983 ở quận 4, Sài Gòn.
Một hôm có một người khách đến nhà hàng chúng tôi gọi món ăn
và tự xưng là Trường Kỳ trong phong trào nhạc trẻ ở Sài Gòn trước năm 1975. Tôi
đẫ biết tên anh trong thập niên 60 ở Sài Gòn và cũng biết anh cùng Nam Lộc,
Tùng Giang, Elvis Phương...là những người hoạt động tích cực cho phong trào nhạc
trẻ sau ngày chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Nhưng đây là lần đầu
tôi gặp mặt anh, một người thấp bé, mang kính cận thật dày và để râu mép. Trước
75, ở Sài Gòn Trường Kỳ cộng tác với tuần báo Kịch Ảnh của Quốc Phong và một sô
báo khác, phụ trách về nhạc trẻ. Khi sang định cư ở nước ngoài anh cũng tiếp tục
viết về âm nhạc cho báo chí Việt ngữ ở hải ngoại và đài VOA. Anh còn xuất bản một
số tuyển tập của anh về âm nhạc tên là Tuyển Tập Nghệ Sĩ. Anh mất ở Toronto năm
2009.
RẠP HÁT VÀ PHIM ẢNH Ở SÀI GÒN
Sài Gòn trong những năm tôi còn theo học ở trường Đại Học Sư
Phạm mở cửa rộng rãi với bên ngoài, nhứt là với nước Pháp vì ngày xưa, thời
Pháp thuộc, miền Nam được gọi là Cochinchine, trực trị bởi chính phủ Pháp. Tuy
nay miền Nam đẫ được độc lập hoàn toàn nhưng ảnh hưởng của nước Pháp vẫn còn thấy
rõ về mọi mặt.
Về giáo dục, dù ở miền Nam đã có một chương trình học bằng
tiếng Việt ở bậc tiểu học và trung học nhưng những gia đình giàu có vẫn muốn gởi
con mình đi học trường Tây. Do đó số trường dạy theo chương trình Pháp vẫn tồn
tại ở Sài Gòn ; trung học có Jean Jacques Rousseau, Marie Curie, Saint Paul,
Saint-Exupéry , La San Taberd, Regina Pacis, Regina Mundi, Couvent des Oiseaux, Pasteur, Phan Văn Huê..,
tiểu học có Colette, Aurore. Michelet, Charles De Gaule...Ở bậc đại học, số
giáo sư còn thiếu và thuật ngữ tiếng Việt chưa đầy đủ (ta chỉ có cuốn Danh Từ
Khoa Học của giáo sư Hoàng Xuân Hãn) nên phải nhờ Pháp chi viện giáo sư và phải
sử dụng tiếng Pháo trong giáo trình ngay trong bài giảng của giáo sư người Việt.
Về mặt xã hội, lối sống của người Sài Gòn phảng phất lối sống ở kinh đô ánh sang Paris. Ai có trình độ tiếng Pháp, người lớn đọc báo Le Monde, Paris Match..., người trẻ đọc Salut Les Copains ...Phim ảnh đa số là của Pháp vói những tài tử Fernandel., Alain Delon, Jean Marais, Louis De Funès, Brigitte Bardot, Catherỉne Deneuve, Mylène de Mongeot...Sau này dù phim Mỹ tràn vào, người ta vẫn thuê phim Mỹ lồng tiếng Pháp và phụ đề Việt ngữ.
Mức sống dân Sài Gòn lên cao, trình độ thưởng thức nghệ thuật
thứ bảy cũng theo đó đi lên. Các rạp chớp bóng (sau này gọi là rạp xi nê) mọc
lên khắp nơi. Những rạp lớn thì có: Đại Nam, Casino Sài Gòn, Eden, Kim Châu,
Văn Hoa..., những rạp nhỏ thì có Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Moderne, Nam Việt, Long Thuận,
Long Phụng, Cao Đồng Hưng...Sau này bà Ưng Thi, chủ rạp Đại Nam mở thêm rạp tối
tân nhứt ở Việt Nam là rạp Rex ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ kế Toà Đô Chính
(Ủy Ban Nhân Dân bây giờ). Rạp Rex có thêm hai rạp nhỏ bên hông là Mini Rex A
và B, bên dưới phía đường Lê Lợi còn có quán café Rex, bên trong cửa kính, máy
lạnh và ghế bành sang trọng. Đây cũng là rạp hát đầu tiên có trang bị thang cuốn.
Rạp hát nào cũng có máy lạnh. Rạp hát lớn thì giá vé cao và
hát theo xuất, khán giả vào xem đúng giờ mở màn và hết xuất phải ra về để rạp
chiếu xuất khác cho tốp khán giả sau. Rạp hát lớn thì chiếu phim mới, còn rạp
hát nhỏ thì chiếu phim cũ và chiếu thường trực, nghĩa là khán giả vào xem lúc
nào cũng được và muốn khi nào ra về thì tùy ý. Có nhiều người tránh nóng buổi
trưa vào rạp xi nê thường trực để ngủ trưa.
Hai rạp Vĩnh Lợi và Lê Lợi được giới học sinh và sinh viên
Sài Gòn chiếu cố nhứt. Rạp Vĩnh Lợi ở kế nhà thương Sài Gòn và nhà hàng Thanh Bạch.
Tôi có hai kỷ niệm đáng nhớ về rạp Vĩnh Lợi. Một hôm tôi vào rạp Vĩnh Lợi để
xem một phim cũ mà hay. Khi tôi đang xem phim thì có hai cô gái vào ngồi chung
một ghế trống bên cạnh tôi, Hai cô chắc là nữ sinh trường Pháp nên tôi nghe họ
trao đổi với nhau bằng tiếng Pháp. Để tỏ ra mình galant với hai người đẹp đồng
thời để chứng minh biết tiếng Pháp, tôi cố gắng xổ ra câu: “J'ai le plaisir de
vous céder ma place” (Tôi rất hân hạnh
nhường chỗ cho các cô), rồi lật đật đứng lên đi tìm chỗ ngồi khác chỉ kịp nghe
tiếng nói merci của hai cô. Một lần khác, Khi tôi đang ngồi trong rạp Vĩnh Lợi
say sưa theo dõi phim trên màn ảnh, chợt một bàn tay ai đó đặt lên đùi tôi, Tôi
nhìn lên thấy một anh chàng ngội ghế cạnh tôi đang thò tay qua. Tôi hoảng hốt đứng
dậy bỏ đi chỗ khác ngồi. Rạp Vĩnh Lợi nổi tiếng có nhiều khán giả bê đê.
Còn ở rạp Lê lợi ở trên đường Lê Thánh Tôn, gần chợ Bến
Thành, tôi nhớ có một lần đi xem phim Dracula do tài tử Christopher Lee đóng,
Đang trong cảnh một thiếu nữ nằm ngủ trong phòng, màn gió cửa sổ bay phất phới
và bá tước Dracila hiện ra ở khung cửa sổ nở nụ cười nhe hai cái nanh trong miệng
đỏ màu máu, thì trong rạp có một tiếng rú lên. Các nữ khan giả trong rạp đồng
loạt la lên sợ hải. Tôi biết anh chàng vừa rú lên là một học sinh ở một trường
tây thường quậy phá các cô nữ khán giả yếu bóng vía mà thích xem phim ma.
Ai mới quen đào thì thường dẫn váo Mini Rex A hay B, ghế ngồi
sang trọng thật êm, ngay cả toilet cũng sạch bóng và lúc nào cũng có một bà xẩm
ngồi ngoài cửa mà người khán giả lịch sự nào cúng không quên dúi vào tay bà một
ít tiền lẻ. Còn ai có đào ruột thì dẫn lên lầu 2 rạp Eden, kín đáo, ấm cúng để
tha hồ tâm sự.
Trong thời kỳ này, Sài Gòn có 3 tờ tuần báo chuyên về âm nhạc,
thoại kịch và điện ảnh là Kịch Ảnh, Điện Ảnh và Màn Ảnh không kể những trang đặc
biệt nói về các bộ môn đó trong các tờ nhật báo. Phim nào mới trình chiếu được
ký giả điện ảnh đi xem trước và tường thuật lại một cách chi tiết cốt truyện.
Những phim kinh điển của nghệ thuật thứ bảy như Cuốn Theo Chiều Gió, Cleopatre,
Ben Hur, Le Jour Le Plus Long, Le Pont De La Rivière Kwai, Doctor Zivago, The Godfather...với nhữnh tên
tuổi Clark Gable, Vivien Leigh, Liz
Taylor, Richard Burton, Charlton Heston, Henry Fonda, William Holden, Omar
Sharif, Robert De Niro…và nhiều nhiều nữa không bao giờ mờ nhạt trong ký ức người
Sài Gòn trước năm 1975.
NHỮNG BƯỚC LANG THANG TRÊN ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN
Trong 4 năm 1965-1969, dù đi dạy ở Trà Vinh cách Sài Gòn 200
cây số và gần trọn ngày ngồi xe đò nhưng trong thời gian đầu, cuối tuần nào tôi
cũng đáp xe đò vế Sài Gòn. Dù mất hết hai ngày đi và về và chỉ có ngày thứ bảy
trọn vẹn ở Sài Gòn, nhưng tôi vẫn hài lòng về quyết định này.
Về tới Sài Gòn, nếu còn sớm tôi ghé ngay đại lộ Lê Lợi vào một quán nước như Phạm Thị Trước hay quán
kem như Mai Hương (nay là quán kem Bạch Đằng ở góc Lê Lợi và Pasteur) hoặc Pôle
Nord (ở mặt tiền thương xá Tax) ngồi để ngắm các giai nhân của Hòn Ngọc Viễn
Đông đang xuôi ngược trên đại lộ sầm uất nhứt trong thành phố Sài Gòn như đại lộ
Champs D’Élysée của Paris hay đường Sainte- Catherine của Montréal. Chỉ cần ngồi
ở đây, người ta có thể khám phá bạn của mình có đào hay chưa vì ai có đào cũng
dẫn đi défiler ngang đây.
Trong khoảng thời
gian này, nếu nhằm lúc đang quen bạn gái thì cũng như mọi người, ngày thứ bảy
tôi sẽ dành trọn cho người đẹp: dẫn nàng đi rước đèn ở phố Bonard (phố Lê Lợi),
rồi đi xi-nê và cuối cùng là đi ăn kem hay ăn nhà hàng theo yêu cầu của giai
nhân; còn nhằm lúc “mồ côi đào” thì đành
ngồi uống nước ngắm thiên hạ cho đỡ buồn.
Vì thường ngồi ở các quán trên đại lộ Lê Lợi nên tôi quen với
một vài anh chàng “mồ côi đào” làm những ngành nghề khác nhau. Ngồi ngắm thiên
hạ chán, chúng tôi thả bộ đến thương xá Tam Đa còn gọi là Crystal Palace (Trung
Tâm Thương Mại Quốc Tế bị cháy năm 2002) để chiêm ngưỡng những giai nhân bán
các gian hàng mỹ phẩm, hay băng nhạc ở đó. Đôi khi chúng tôi đến nhà hàng La
Pagode hay quán kem Brodard ở đường Tự Do (Đồng Khởi bây giờ) để thay đổi không
gian. Nếu muốn nghe nhạc có hình (thời đó chưa phát minh vidéo) thì chúng tôi
vào Saigon Departo cũng ở đường Tự Do, nơi có đặt một máy scopitone mà người ta
có thể chọn một bản nhạc trên bàn phím và mua jeton bỏ vào cái khe để nghe và
thấy ca sĩ hát bản đó.Tôi thích nghe bản nhạc phim Le Jour Le Plus Long do ca
sĩ Dalida mặc quân phục hát trong máy đó.
Cuộc vui nào cũng phải
tàn. Sáng chủ nhật tôi lên xe đò trở xuống Trà Vinh. Những đêm ở lại Trà Vinh,
sau khi soạn bài vỡ để ngày hôm sau dạy và trước khi đi ngủ tôi mở máy hát đĩa
để nghe nhạc. Những tiếng hát ngọt ngào của Phương Dung, Hoàng Oanh..trên những
đĩa nhựa 45 vòng làm thấm thía nỗi buồn kẻ sống xa nhà nhất là xa thành phố
thân yêu Sài Gòn, nơi tôi sống từ nhỏ. Đặc biệt bản Nhớ Thành Đô của Hoàng Thi
Thơ diễn tả đúng tâm trạng của tôi lúc đó:
“Tôi xa đô thành một đêm trăng mông mênh
“Tuy ra đi rồi mà vẫn nhớ, vẫn thương
“Hình bóng ấy, người em thơ đang từng giờ đợi chờ..”
Bốn năm đợi chờ cũng chóng qua. Năm 1969, tôi được đổi về dạy
ở trường Ngô Quyền, Biên Hòa chỉ cách Sài Gòn có 30 km. Ban giám đốc nhà trường
thông cảm cho hoàn cảnh những thầy cô từ Sài Gòn lên dạy ở Biên Hòa nên sắp xếp
cho tôi mỗi tuần dạy từ sang thứ hai đến chiều thứ ba là đủ giờ bắt buộc. Tôi
chỉ ở lại Biên Hòa đêm thứ hai, những ngày còn lại tôi ở Sài Gòn.
TRƯỜNG TƯ SÀI GÒN
Sau hiệp định Genève,
hơn 1 triệu người từ miền Bắc di cư vào Nam làm xã hội ở đây có nhiều thay đổi.
Về mặt giáo dục, một
số trường học trung học nổi tiếng ở Hà Nội như Chu Văn An ( hậu thân của trường
Bưởi), Nguyễn Trãi...và một số phân khoa đại học ở Hà Nội cũng theo làn sóng
người di cư chuyển vào Sài Gòn. Vì chưa chuẩn bị kịp cơ sở nên lúc đầu trường
Chu Văn An , Đại Học Khoa Học và Đại Học Sư Phạm phải mượn một phần cơ sở rộng
lớn của trường trung học Pétrus Ký để làm nơi giảng dạy. Sau này, trường Chu
Văn An mới có trường sở riêng ở quận 5, Chợ Lớn. Trường Nguyễn Trãi cũng tạm
trú ở trường tiểu học Lê Văn Duyệt ở đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn
Đình Chiểu, quận 3),mãi đến giữa thập niên 60 mới dời về quận 4.
Theo chân các trường học, các giáo sư và học sinh, sinh viên miền Bắc vào Sài Gòn làm đông đảo hơn lực lượng người dạy và học ở đây. Số lượng các trường cấp học phổ thông (tiểu học và trung học) tăng lên. Nhưng số trường công lập không đủ đáp ứng nhu cầu của số học sinh quá đông nên các trường tư mọc ra như nấm. Do đó, việc mở trường tư ban đầu do các nhà giáo có điều kiện tài chánh rộng rải nghĩ ra như các giáo sư Nguyễn Văn Khuê, Vương Gia Cần, Nguyễn Văn Phú (trường Hưng Đạo ở đường Cống Quỳnh), Trần Bích Lan (trường Văn Học ở đường Phan Thanh Giản)...Nhưng về sau, trường tư cũng là một hình thức kinh doanh của những nhà tư sản. Họ chỉ cần sở hữu hay thuê một căn nhà lớn nhiều phòng hay nhiều tầng để làm trường rồi mướn một người có bằng cử nhân làm hiệu trưởng để xin giấy phép của Bộ Giáo Dục mở trường trung học tư thục. Công việc còn lại là quảng cáo và mời giáo sư giảng dạy. Người ta thuê người vẻ các banderole giăng trên cao ngang đường hay những bảng thiếc đặt dọc đường đề tên trường, ngày khai giảng, danh sách giáo sư...Người ở Sài Gòn trước 1975 ai cũng biết những bảng quảng cáo các lớp luyện thi toán lý hoá của giáo sư Huỳnh Ngọc Tiếu được đặt đầy rẫy trên các đường phố. Sau 1975, tôi nghe nói bên Cali, giáo sư Tiếu cũng mở các lớp dạy thêm cho học sinh.
Phải nói thật lòng,
trong thành phần giáo chức ngày xưa, đa phần là người Bắc di cư. Họ là thành phần
trí thức ưu tú ở Hà Nội vào miền Nam để có môi trường sinh hoạt thích hợp hơn.
Nói rộng hơn, sau năm 1954, nền văn hoá miền Nam bùng phát với sự tham gia của
những người đến từ miền Bắc, đặc biệt là từ Hà Nội. Trong mọi lãnh vực văn hoá:
văn chương, âm nhạc, điện ảnh, báo chí...và giáo dục người Bắc di cư cũng chiếm
số đông. Trong suốt thời gian học trung học và đại học của tôi, các thầy tôi đa
số là người miền Bắc di cư.
Như đã nói trên, tuy
dạy trường công ở Biên Hoà nhưng tôi chỉ ở đó có hai ngày đầu tuần. Những ngày
còn lại trong tuần, ở Sài Gòn tôi được bạn bè giới thiệu vào dạy một số trường
tư. Tôi dạy trường Tân Văn ở đường Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần bây giờ) gần chợ
Đũi và Tân Việt ở đường Yên Đổ gần công trường Dân Chủ mà giám đốc là anh Nguyễn
Lung. Anh Lung cũng là giáo sư toán, trước mở các cours luyện thi, sau mướn hiệu
trưởng để mở hai trường đó. Nghe nói người đứng tên hiệu trưởng trường Tân Văn
là luật sư Lê Đại Toàn, anh của tài tử Lê Quỳnh. Thỉnh thoảng vào buổi sáng,
anh Lung thường lấy xe Peugeot 403 chở chúng tôi đi ăn cơm tấm Trần Quý Cáp.
Nguyễn Lung có một người vợ thật đẹp là bạn của nữ minh tinh Thẩm Thúy Hằng.
Sau này sau khi định cư ở Pháp, anh Lung và vợ đã thôi nhau.
Trường Tân Văn có cơ sở là một ngôi biệt thự, cạnh trường Anh văn Nguyễn Ngọc Linh, có tường bao bọc chung quanh. Trong sân trường có một cây cổ thụ mà tàng cây che bóng mát cho phía dưới suốt ngày.Cả hai trường Tân Văn và Tân Viêt đều có mở những lớp học ban đêm cho người lớn học để thi Tú Tài, đa số học viên là công chức và quân nhân. Sau này tôi thuê phòng học ở trường Thượng Hiền của thầy tư Kiệt để mở các lớp luyện thi Tú Tài.
Trong những năm cuối cùng trước ngày 30/4/75, tôi có dạy các
trường tư khác như Đức Chính ở đường Bùi Viện, Saint Thomas ở nhà thờ Ba
Chuông, Trương Minh Giảng, một trường ở gần chợ Bà Chiểu mà tôi quên tên và lớp
đêm ở trường nữ trung học đô thị Cô Giang (trường Thälmann bây giờ) trên đường
Trần Hưng Đạo. Chính ở đây tôi đã gặp người bạn đời của tôi.
CÁC PHÒNG TRÀ SÀI GÒN
“Sài Gòn ta gởi cho em
Quán cơm Anh Vũ, phố đèn Tự Do
Nhớ em! Ôi, thuở học trò
Này đường Nguyễn Trãi, con đò Thủ Thiêm”
(Khuyết danh)
Như đã nói ở phần trước, theo làn sóng di cư từ miền Bắc vào Nam, những văn nhân, nghệ sĩ của Hà Thành đã tìm đến Sài Gòn, nơi đất lành chim đậu.Nhạc sĩ Anh Bằng đã cho thấy điều đó qua câu ca “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu” trong bài hát Nỗi Lòng Người Đi. Số lượng đông đảo người làm văn nghệ đến từ miền Bắc làm cho xã hội miền Nam khởi sắc hơn và nhất là thành phố Sài Gòn càng xứng đáng với danh xưng Hòn Ngọc Viễn Đông.
Những tác phẩm văn
chương, những nhạc phẩm , những cuốn phim và những tuồng cải lương kinh điển của
Sài Gòn trước 1975 vẫn sống mãi trong tâm hồn người Sài Gòn dù cho vật đổi sao
dời. Đây là thời gian rực rỡ nhứt của văn học, nghệ thuật Sài Gòn. Thơ Nguyên
Sa “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, áo nàng xanh anh mến lá sân trường”, nhạc
Phạm Duy “Ta ngắt đi một cùm hoa thạch thảo, em nhớ cho mùa thu đã chết rồi”,
minh tinh Thẩm Thuý Hằng, cô đào Thanh Nga.là những biểu tượng không phai mờ
theo thời gian của thành phố Sài Gòn.
Ánh đèn màu của Sài Gòn cũng không bao giờ tắt trong đêm cả trong thời gian chiến tranh leo thang khốc liệt. Vũ trường có đóng cửa thì người ta thay thế bằng phòng trà.Một trong những phòng trà đầu tiên ở Sài Gòn là Anh Vũ ở số 43 đường Bùi Viện (phố Tây bây giờ). Ở đó, ban ngày là quán cơm bình dân cho học sinh, sinh viên và người lao động, ban đêm là phòng trà ca nhạc. Phòng trà Anh Vũ mở cửa năm 1960 và tồn tại chỉ có vài năm thì bị đóng cửa vì tình hình an ninh, nhưng đó là bệ phóng của những ca sĩ tên tuổi sau này của Sài Gòn: Thanh Thuý, Bạch Yến, Minh Hiếu, Lệ Thanh, Duy Khánh, Việt Ấn, Cao Thái, Duy Trác...
Cũng trong thời gian đó, một vụ án nổi tiếng xảy ra ở vũ trường
Kim Sơn ở đường Tự Do: vũ nữ Cẩm Nhung bị vợ trung tá Thức cho người tạt acide
vì ghen. Từ một cô vũ nữ xinh đẹp, Cẩm Nhung trở thành một người có một bộ mặt
bị huỷ hoại tàn khốc. Trước đó ở Sài Gòn cũng có một vụ án vì ghen tương khác
làm tốn bao nhiêu giấy mực trên các trang báo: vụ án cô Quờn đốt chồng...
Theo dòng thời gian, thời chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm vũ
trường bị đóng cửa thì sau khi ông bị lật đổ, các ông tướng cho mở lại vũ trường
nhưng đến năm 1968, sau biến cố tết Mậu Thân , vũ trường lại bị đóng cửa và phải
chuyển sang hình thức phòng trà,
Chúng ta phải kể tên những phòng trà nổi tiếng thời kỳ này
là: Queen Bee với ban nhạc Shot Gun của Ngọc Chánh ở building Eden, Đêm Màu Hồng
với ban hợp ca Thăng Long ở đại lộ Nguyễn Huệ, Tự Do với các ca sĩ Khánh Ly, Lệ
Thu ở đường Tự Do, Maxim’s ở gần khách sạn Majestic và Ritz của Jo Marcel ở đại
lộ Trần Hưng Dạo.
Tôi thường đến phòng trà Queen Bee nghe nhạc vì ở đây chỗ ngồi
thoải mái và âm thanh rất hay.
ĂN UỐNG Ở SÀI GÒN
Một nghề chuyên nghiệp
của người Bắc di cư là nấu phở. Người miền Nam trước đó chỉ biết đến hủ
tíu: hủ tíu của người Hoa, hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Vĩnh Long hay hủ tíu Nam
Vang…Sau năm 1954, cùng với sự hiện diện của những người đến từ miền Bắc, những
tiệm phở của họ đem đến cho Sài Gòn một hương vị mới: phở Tàu Bay ở đường Lý
Thái Tổ, Phở Hòa ở đương Pasteur, Phở Bắc đường Võ Tánh (nay là đường Nguyễn
Trãi), phở Cao Vân đường Mạc Đĩnh Chi…Sau này theo chân người Việt định cư ở nước
ngoài những thương hiệu nói trên cũng được thấy ở các thành phố lớn của Mỹ,
Canada, Pháp, Úc.
Nhắc đến ẩm thực Sài Gòn, nếu muốn ăn phở ngon thì phải đến
tiệm của người miền Bắc, muốn ăn hủ tíu hay hủ tíu mì thì phải vào tiệm nước
người Tàu. Người Hoa ở Hải Phòng di cư vào Sài Gòn mang theo món mì La Cai và
mì vịt tiềm ở tiệm Hải Ký Mì Gia đường Nguyễn Tri Phương (đường Lacaze thời
Pháp thuộc vì vậy mới từ mì La Cai). Nhưng người Sài Gòn vẫn không quên tiệm hủ
tiếu Thanh Xuân ở đường Tôn Tất Thiệp gần chùa Chà Và.
Là một người từng
lang thang ở phố Lê Lợi vào cuối tuần tôi không quên được hai món ăn sáng khoái
khẩu ở nhà hàng Thanh Bạch kế nhà thương Sài Gòn: pâté chaud và bánh mì bò kho
hay bún suông ở nhà hàng Thanh Thế đường Nguyễn Trung Trực. Sau này không còn
nhà hàng Thanh Thế thì tôi ăn bún suông
chỗ sạp cô Mai trong chợ Sài Gòn
Còn nhiều món ăn ngon khác mà người Sài Gòn không quên như
bánh mì Bưu Điện, bánh mì Tòa Đô Chánh, bánh mì Nguyễn Ngọ (trên đại lộ Trần
Hưng Đạo), bánh xèo Đinh Công Tráng, bánh cuốn Tây Hồ ở Đa Kao, cháo vịt Thanh
Đa, bò bảy món Ánh Hồng ở Phú Nhuận, bánh bao ông Cả Cần ở ngả sáu Chợ Lớn...
TRUYỀN THANH VÀ TRUYỀN HÌNH Ở SÀI GÒN
Năm 1939, chính phủ Pháp cho thành lập đài phát thanh Radio
Saigon như là tiếng nói của nước Pháp tại Viễn Đông phục vụ cho nước Pháp trong
thời kỳ thế chiến thứ 2 dưới sự điều khiển của ông Jacques LeBourgeois.
Ngày 9/3/1945 đài này
im tiếng sau khi Nhật đảo chánh Pháp và đài này chỉ hoạt động trở lại tháng 12
năm 1945 sau khi Pháp theo chân quân đội Đồng Minh trở lại Sài Gòn. Đến năm
1950 , đài này đổi tên là đài phát thanh Pháp Á (Radio France-Asie). Ngày
27/2/1956 đài Pháp Á được giao lại cho chánh quyên của ông Ngô Đình Diệm và từ
dó người ta có đài phát thanh Sài Gòn.
Cho đến năm 1975, tôi
thích nhất là giọng nói của hai xướng ngôn viên Lệ Hồng và Văn Thiệt trên đài
Sài Gòn. Đài Pháp Á và đài Sài Gòn đối với các nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ, nghệ sĩ
cải lương...là một môi trường giúp họ phát triển tài năng vì đã mang tiếng nhạc,
lời ca, tiếng nói của họ đến người dân miền Nam.
Tôi còn nhớ ngoài những mục tin tức, bình luận, ca nhạc kịch,
ngâm thơ...có những chương trình đặc biệt mà khi đến giờ phát thanh ai cũng
mong chờ. Chiều thứ ba dù đang ở sở làm hay ở nhà người ta mở radio để nghe xổ
số và bài hát mở đầu cho buổi xổ số do nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình bày mà tới
nay người dân cố cựu của Sài Gòn vẫn còn nhớ những câu như:
“Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Ðược nên cửa nhà”
Tối thứ bảy, người mê cải lương được nghe trực tiếp truyền
thanh một tuồng mới của một đoàn cải lương nổi tiếng của Sài Gòn. Khi nào có một
trận đá banh quốc tế thì người ghiền môn túc cầu sẽ được ký giả Huyền Vũ tường
thuật trục tiêp qua làn sóng điện. Lối diễn tả trận đấu của Huyền Vũ rất sôi nổi
đến nay chưa ai có thể qua được. Tôi còn nhớ câu nói để diễn tả tỷ số 0-0 của
hai hội banh, Huyền Vũ thường sử dụng câu:’Màn lưới đôi bên vẫn còn trinh bạch”.
Lúc còn nhỏ, nhà tôi không có radio, tôi phải ngối ngoài sân nhà hàng xóm với
đám con nít để chăm chú nghe tường thuật trận đá banh. Nhờ Huyền Vũ tôi quen tên
những hội banh như Ngôi Sao Gia Định, AJS (sau là hội Cảnh Sát Quốc Gia), Quan
Thuế, Tổng Tham Mưu…và những cầu thủ: Kane, Don, Myo, Tam Lang, Rạng, Ngôn,
Tư…Thời đó, nền bóng tròn của Hồng Kông là nổi trội nhứt ở Á Châu nhứt là đội
Nam Hoa với cầu vương Lý Huệ Đường, Hội banh Việt Nam thường thua các hội Hồng
Kông mỗi khi chạm trán với họ. Nhưng có lần hội tuyển Việt Nam phá lệ thắng hội
Nam Hoa. Hôm đó dân Sài Gòn mừng vui như ngày hội, nhưng người ta không xuống
đường chạy xe gắn máy ồn ào như những “fan bóng đá” ngày nay (đi bão!)
Ngày 7./2/1966, buổi phát hình đầu tiên của đài truyền hình
Sài Gon lúc 19 giò tối do một phi cơ C121 của Mỹ bay trên không phận Sài Gòn
phát ra. Về sau, ngày 25 tháng 10 năm 1966, trụ sở trên mặt đất đươc thiết lập
tại số 9 đường Hồng Thập Tự. Lúc đầu truyền hình Sài Gòn chỉ phát hình một giờ
mỗi ngày, về sau lên tới 6 giờ một ngày và nhiều hơn nếu là cuối tuần. Những
năm sau đó người ta mở thêm các đài truyền hình Cần Thơ, Huế, Quy Nhơn và Nha
Trang.
Đài Sài Gòn phát trên băng tần số 9, Cần thơ tần số 7 và đài
Mỹ AFVN (Armed Forces Vietnam Network) tần số 11. Những chương trình của đài Mỹ
lấy từ chính quốc rất phong phú. Ba tôi đêm nào cũng thức khuya để xem đấu vật
(wrestling). Tôi thích xem những phim cao bồi như Gunsmoke, Bonansa, Wild Wild
West…Đứa em kế tôi thích phim chiến tranh như Combat hay Assault. Những đứa em
nhỏ hơn thì xem phim hoạt họa như: Peanut, Flinstone…hay phiêu lưu Batman. Lại
còn phim khoa học viễn tưởng như Lost in space, Startreck (người ta thường gọi
là phim Lỗ Tai Lừa) hay gián điệp như Mission Impossible. Phim ma diễu thì có
Adam Family..Tuy không hiểu hết nội dung vì phim nói tiếng Anh nhưng mọi người
đều thích thú vì không cần đến rạp xi nê mà vẫn coi được phim.
Tuy nhiên không phải nhà nào cũng có TV. Giá một máy truyền
hình lúc đó bằng mấy tháng lương bình thường. Nếu nhà không có TV thì người ta
xem ké bên nhà hàng xóm. Tôi nhớ lúc còn dạy ở Trà Vinh, đám thầy giáo chúng
tôi tối nào cũng đến nhà bác sáu Chẩn, giám thị trường trung học Vĩnh Bình để
xem TV. Sau này trở về Sài Gòn tôi mua cho gia đình một máy truyền hình hiệu
Denon 16 inch. Màn ảnh nằm trong một cái thùng gỗ có cửa. Sau năm 1975, trong
thời gian khó khăn, nhà không có TV mỗi lần có tranh cúp Mondial, tôi phải sang
nhà người học trò bên cạnh xem ké trận đấu.
CÁC ĐẠI NHẠC HỘI Ở
SÀI GÒN
Miền Nam trong khoảng 1956-1960 rất là yên bình. Năm 1957, nhân lễ Quốc Khánh chính quyền VNCH có tổ chức một hội chợ bên Thị Nghè. Ngỏ đi từ sở thú qua Thị Nghè có một cây cầu đúc, đêm khai mạc hội chợ người ta chen lấn, xô đẩy nhau trên cầu để vào hội chợ khiến 17 người chết và nhiều người bị thương vì dẫm đạp nhau và rơi xuống sông. Hội chợ vẫn tiếp tục mở cửa và mấy hôm sau má tôi dẫn anh em tôi đi chơi hội chợ thì thấy trên cầu chỉ còn lưa thưa người vào hội chợ, có lẽ người ta e sợ tai nan có thể xảy ra nữa. Sau khi hội chợ chấm dứt thì khu hội chợ biến thành giải trí trường Thị Nghè, nơi có nhà hàng, trò chơi và trình diễn ca cỗ do nghệ sĩ Lệ Liễu tổ chức
Sau đó dù chiến tranh leo thang, tôi vẫn sống thời tuổi trẻ
của mình trong hạnh phúc và hy vọng tương lai. Thời kỳ sinh viên, ngoài việc học
tôi cùng các bạn đắm mình trong những cuộc vui chơi. Những ngày cuối tuần ban
đêm chúng tôi đi bal, ban ngày đi dạo phố Bô Na (Bonard). Đôi khi chúng tôi đi
xem đại nhạc hội.
Thời đó, đại nhạc hội là một chương trình tạp kỷ bao gồm những tiết mục ca nhạc kịch, ảo thuật, xiếc, cải lương… Ban đầu ông bầu tổ chức là quái kiệt Trần Văn Trạch. Sau này là Duy Ngọc tại rạp Đại Nam và Tùng Lâm tại rạp Olympic.Ông bầu Duy Ngọc, sau năm 1975 vẫn hoạt động trong làng ca nhạc đến khi mất năm 2016. Đại nhạc hội của ông đã quy tụ những nghệ sĩ tên tuổi hàng đầu nhiều thế hệ như tam ca AVT (Lữ Liên, Tuấn Đăng, Vân Sơn); các nghệ sĩ cải lương Thành Được Út Bạch Lan, Thanh Nga, Bạch Tuyết, Hùng Cường; các ngôi sao ca nhạc Giao Linh, Thanh Tuyền, Mai Lệ Huyền…; các nghệ sĩ kịch: Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Túy Hồng. Người làm MC cho các buổi đại nhạc hội, thời đó gọi là hoạt náo viên nổi tiếng là Trần Văn Trạch, Ngọc Phu, Tùng Lâm..
Người ta còn nhớ thời đó có những lò đào tạo ca sĩ mà về sau trở nên nổi tiếng trên vòm trời ca nhạc. Lò Nguyễn Đức có một lô ca sĩ họ Phương gồm Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc (Cẩm Hồng) hay trước đó là Hoàng Oanh, Thanh Lan và có cả nghệ sĩ hài như Thanh Hoài, Trần Tỷ. Lò Tùng Tâm giới thiệu Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến rồi Chế Linh, Giang Tử. Lớp nhạc Bảo Thu có Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim Loan; Hoàng Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa Mi; Nguyễn Văn Đông đào tạo Giao Linh, Thanh Tuyền …
Miền Nam đi tiên phong trong lãnh vực báo chí. Tất cả những
tờ báo đầu tiên của Việt Nam đều xuất xứ từ đây. Tờ Gia Định Báo ra đời ở Sài
Gòn năm 1865 chỉ 3 năm sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ (1862).
Có thể nói, trước 1975 Sài Gòn là nơi mà báo chí phát triển và phong phú. Trừ một vài tờ báo là cơ quan thông tin và tuyên truyền của chánh quyền và quân đội, đa phần báo chí là của tư nhân . Những người làm báo kỳ cựu ở Sài Gòn trước 1975 phải kể như các ông Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam) với tờ Thần Chung, Trần Tấn Quốc với tờ Tiếng Dội, Đinh Văn Khai với tờ Tiếng Chuông, bà Bút Trà với tờ Sài Gòn Mới...
Người Sài Gòn, không chỉ là người trí thức mà kể cả những
người lao động đều có thói quen đọc báo mà người bình dân gọi là xem “nhựt
trình”. Hình ảnh một ông công chức đeo kính trắng ngồi tréo chân trong một quán
nước vừa ăn sáng, uống cà phê vừa đọc báo và một anh xích lô ngồi trên nệm xe
xem nhựt trình trong khi chờ đợi khách là những gì người ta bắt gặp đây đó
trong thành phố Sài Gòn.
Báo chí thời đó cung cấp đủ tiết mục khác nhau cho người đọc
tuỳ theo sở thích của họ. Tin tức cho người theo dỏi thời cuộc, thể thao cho ai
mê đá banh, bóng bàn, quần vợt, đua xe đạp..., kịch trường cho người thích cải
lương, điện ảnh cho ai ham xem phim, nhứt là tiểu thuyết hay truyện dài đăng từng
ngày (feuilleton) cho người mê đọc truyện.
Các ký giả được phân chía theo chuyên môn của họ: Kiên
Giang, Nguyễn Phương, Trần Tấn Quốc ( cha đẻ giải Thanh Tâm của ngành cải
lương) phụ trách trang kịch trường, Thiệu Võ, Huyền Vũ trang thể thao, Quốc
Phong trang điện ảnh...Những danh xưng của các nghệ sĩ, ca sĩ, vận động viên thể
thao được các ký giả đặt tên như “vua xàng xê” Minh Chí, “cải lương chi bảo” Bạch
Tuyết, “TV chi bảo” Phương Hồng Quế, “nhạn trắng Gò Công” Phương Dung, “nữ
hoàng sầu muộn” Giao Linh, “phượng hoàng” Lê Thành Các, thủ môn “lưỡng thủ vạn
năng” Phạm Văn Rạng...
Nhưng thường một tờ báo ăn khách nhờ những tiểu thuyết, truyện dài từng kỳ. Tác giả đầu tiên viết tiểu thuyết feuilleton trên báo là Phú Đức với truyện trinh thám rất nổi tiếng Châu Về Hiệp Phố đăng nhiều kỳ trên báo Trung Lập và Công Luận từ năm 1926, về sau được đăng lại trên báo Thần Chung và Đuốc Nhà Nam trong những năm 60, 70. Hồi còn nhỏ tôi mê các nhân vật Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ Thuỷ, Lục Tặc trong bộ truyện này. Những tác giả sau này như bà Tùng Long, Dương Hà, Ngọc Linh, Hoài Điệp Tử...cũng rất ăn khách với nhứng tiểu thuyết tình cảm xã hội đăng hàng ngày trên các nhựt báo ở Sài Gòn.
Với làn sóng di cư của đồng bào miền Bắc vào Nam, làng báo
Sài Gòn được tăng cường những nhân tố mới làm phong phú thêm món ăn hàng ngày của
dân Sài Gòn. Nhiều tờ báo mới do người Bắc di cư chủ trương như Tự Do mà chủ
nhiệm là Phạm Việt Tuyền, Chính Luận của bác sĩ Đặng Văn Sung và đình đám nhứt
là tờ báo Sống của Chu Tử sau khi bị đình bản trở thành là Sóng Thần. Chu Tử là
tác giả nhiều tiểu thuyết tình cảm ăn khách với tuổi trẻ Sài Gòn lúc đó nhứt là
cuốn Yêu mô tả chuyện tình của cháu Diễm và chú Đạt, bạn của cha Diễm. Chu Tử tử
nạn ngày 30/4/75 khi tìm đường rời Việt Nam.
Phải kể thêm những tiểu thuyết đăng báo ăn khách khác vào thời
kỳ nửa đầu thập niên 70 của Lê Xuyên với Chú Tư Cầu, Duyên Anh với Điệu Ru Nước
Mắt, Nguyễn Thuỵ Long với Loan Mắt Nhung, Trần Đức Lai với Cậu Chó...
Một hiện tượng nổi bật trong làng báo Sài Gòn của những năm
60, 70 là phong trào xem truyện võ hiệp của Kim Dung. Các báo tranh nhau đặt
mua báo Hồng Kông sớm nhứt để có bài mới của truyên Kim Dung đăng trên báo Hồng
Kông đem dịch và đăng báo của mình hầu ra trước báo khác để câu đọc giả. Những
dịch giả Từ Khánh Phụng, Hàn Giang Nhạn nhờ cơn sốt truyện Kim Dung mà kiếm bộn
bạc.
SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG Ở SÀI GÒN
Văn chương miền Nam trước 1975 xét về khía canh văn phong có
thể chia làm hai trường phái: văn chương trau chuốt của các tác giả gốc miền
Trung và miền Bắc, văn chương miệt vườn của các nhà văn gốc miền Nam.
Trước 1954, nghĩa là
trước làn sóng di cư của người miền Bắc vào Nam sau hiệp đinh Genève chia đôi đất
nước, người ta đọc những tác phẩm của Phú Đức về trinh thám, Nam Đình về xã hội,
Hồ Biểu Chánh về phong tục, Hồ Hữu Tường vừa trào lộng, vừa chính trị giả tưởng...
Trong số các tác giả ấy có thể nói Hồ Biểu Chánh là người có gia tài văn chương
đồ sộ nhứt. Má tôi là độc giả trung thành của nhà văn này dù bà học chưa hết bậc
tiểu học vì những cốt truyện trong các tiểu thuyết của ông gần với những cảnh đời
thường, tâm lý các nhân vật trong truyện giống như các hạng người trong xã hội
đương thời và nhứt là lời văn bình dị như lối kể chuyện hay nói chuyện của người
miền Nam.
Khi những nhà văn từ
Hà Nội vào Sài Gòn và nhứt là khi lớp học sinh, sinh viên gốc miền Bắc ra trường
(dù tốt nghiệp hay không) nhập vào lớp đàn anh đã thành danh tạo nên một lực lượng
hùng hậu các người viết văn gốc Bắc gần như thống trị môi trường văn nghệ Sài
Gòn. Những Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Nguyễn Vỹ...và tiếp nối là
Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Thế Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Duyên Anh,
Nguyễn Thuỵ Long...xuất hiện thường xuyên trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn
hay có các tác phẩm in thành sách.
Các nhà văn miền Nam tuy có mặt trên văn đàn khiêm nhường
hơn nhưng cũng rất ăn khách: Sơn Nam với những câu chuyện về các địa phương miền
Nam như xứ Cạnh Đền, xóm Bàu Láng..., Bình Nguyên Lộc mà tác phẩm nổi tiếng nhứt
là Đò Dọc, Lê Xuyên với Chú Tư Cầu, Ngọc Linh với Đôi Mắt Người Xưa...
Các nhà văn gốc miền Trung cũng góp phần cho sinh hoạt văn
chương Sài Gòn thêm náo nhiệt. Cũng nên kể ra một số khuôn mặt tiêu biểu như Võ
Phiến, Võ Hồng, Trần Hoài Thư...
Một hiện tượng đáng nhắc tới là các nhà văn nữ trong thời kỳ
này cũng từng làm mưa làm gió trên văn đàn. Nhà văn gốc Bắc có Trùng Dương, miền
Nam có Nguyễn Thị Thuỵ Vũ nhưng ba nhà văn nữ đình đám nhứt đều là gốc Huế :
Nhã Ca, Tuý Hồng và Nguyễn Thị Hoàng. Đặc biệt, tác phẩm Vòng Tay Học Trò của
Nguyễn Thị Hoàng trong những năm cuối của thập niên 60 đã gây bão tố trong làng
văn chương và cả ngoài xã hội khi bà đã đưa chuyện tình của bà, một cô giáo
(Trâm) với người học trò (Minh).
Cũng trong thời kỳ này, các tạp chí, nguyệt san, tuần báo về
văn nghệ như Bách Khoa, Văn, Văn Học, Khởi Hành...đưa những tác phẩm văn chương
của các tác giả đến với người đọc. Tôi cũng có một số bài viết đăng trong Bách
Khoa, Khởi Hành và một số nhựt báo ở Sài Gòn.
TÔI TRỞ LẠI SÀI GÒN
Cuốn phim đời Sài Gòn
Và Tôi bị gián đoạn hơn hai năm sau ngày 30/4/1975 lúc tôi đi học tập cải tạo
vì là giáo chức biệt phái. Mùa tựu trường niên khoá 1977-1978 tôi được cho dạy
học lại tại trường Nguyễn Trãi quận 4, vốn là quận nhà của tôi cũng như bà xã
tôi.
Nhưng về sau, nghề dạy học dù có mở lớp dạy thêm ở nhà cũng
không giúp tôi nuôi sống gia đình một vợ hai con nên chúng tôi nghĩ ra việc mở
quán nhậu vì vợ tôi có khiếu nấu nướng. Lúc đó, Việt Nam đang ở trong thời kỳ
"bao cấp" nên số nhà hàng, quán ăn rất ít vì vậy ban đầu chúng tôi
cũng tạm sống thoải mái. Nhưng sau này, vì thấy quán chúng tôi đắt khách người
ta kiếm chuyện hoặc tăng thuế quá mức khi chúng tôi mở quán tư nhân hay chấm dứt
hợp đồng khi chúng tôi hợp tác mở cửa hàng ăn uống dưới hình thức hợp tác xã,
vì vậy chúng tôi đành phải đi ra nước ngoài.
Nhưng sau 22 năm xa xứ, năm 2008 tôi về hưu , hàng năm vào dịp tết tôi về Việt Nam để tìm lại hương vị mùa xuân ở quê nhà. Ngày trước tôi là người “thường trú”, bây giờ tôi là khách “tạm trú” của thành phố Sài Gòn dù đây là nơi tôi đã sống cả nửa đời người.
Bộ mặt Sài Gòn đã thay đổi. Thành phố lên cao hơn với những
cao ốc chung cư đông hơn với làn sóng người đến từ miền Bắc, miền Trung và miền
Tây và ồn ào hơn với khối xe gắn máy dày đặc trên các nẻo đường. Tôi không tìm
thấy lại một Sài Gòn thân yêu, duyên dáng, lịch sự và văn minh của ngày xưa.
Tuy nhiên, mục dích tôi trở về Sài Gòn, ngoài việc ăn tết
còn để sống lại trong những thân tình của gia đình, bạn bè xưa và học trò cũ.
Đó là những gì hạnh phúc và ấm áp trong buổi hoàng hôn của cuộc đời tôi.
Montréal, ngày
5/4/2021
GS. Huỳnh Công Ân