3 thg 4, 2012

VỀ THĂM HUẾ


 Lời người post :
        Bài viết ghi lại những cảm xúc suy nghĩ của Trần Tăng Quý (nhà giáo hưu trí) trong chuyến về thăm cố đô Huế .Đây không phải là một bài viết hoàn chỉnh mà chỉ là những đoạn trích ghép nối từ những lá thư TTQ gửi cho bạn bè cùng người thân.Tuy vậy các bạn cũng có thể cảm nhận được ở bài này những rung động chân thành của tác giả khi đặt chân đến Huế, cũng là quê ngoại của mình.Với những hình ảnh thật đẹp kèm theo,vẻ mộng mơ cổ kính xứ Huế ngày xưa sẽ đi vào lòng bạn dẫu chưa một lần đặt chân đến Huế.
                                                               *****
          Năm ngoái,tôi ra thăm Huế 10 ngày vì hai lẽ : đó là quê vợ và lời rủ rê của anh Ngọ,một ông bạn giáo già gốc Huế tình nguyện dẫn đường. Những lần trước tôi ra Huế theo đoàn du lịch nên cũng chỉ đến thăm các lăng tẩm đền đài,chưa được đi nhiều nơi thậm chí nhà vợ mình ở đâu cũng không biết.
         Cuộc hành trình trên chiếc tàu hoả khởi hành từ Ga Hoà Hưng lúc 15h30 ngày 4/7/2011, đến Huế vào khoảng 14h trưa hôm sau.


          Đi tàu hoả hạng bình dân cũng có cái thú là được ra ngoài khoang để hút thuốc và chụp hình,chứ thật ra cũng hơi khó chịu vì nó cứ xập xà xập xình,nghiêng qua nghiêng lại.Đến cữ ăn sáng,trưa chiều tối không phải xuống căn tin xa xôi mà ngồi tại chỗ đã có nhân viên cung ứng dịch vụ đến mời chào đủ món cơm cháo, mì,hột gà luộc,trái cây,cafe nước ngọt đầy đủ chỉ có cái hơi đắt nên hạng người ít tiền thường phải mang theo từ nhà đồ ăn thức uống hoặc tranh thủ xuông các ga có nhận khách, xe lửa phải chờ lâu mà tranh thủ ăn vội đĩa cơm hoặc mua vài quả bắp,ít nước đá mà dùng qua đường.Đên khuya mới thật là kinh khủng : những người mua vé súp cứ lăn đùng ra sàn xe mà ngủ.Họ chui cả vào gầm ghế ngồi của mình mà nằm hàng hàng lớp lớp như các con cá mắm khiến mình không tài nào chợp mắt được vì mình không thể để chân xuống sàn được nữa.Có lúc tức quá mình để luôn chân lên bụng họ nhưng họ vẫn ngủ yên như chưa từng được ngủ. Quá ngại mình lại bỏ ra ngoài khoang hút thuốc rồi ngắm nhìn màn đêm tĩnh mịch trôi qua vun vút trong tiếng xập xình đều đặn.
        Cái lão Ngọ nhà mình tuy già yếu như Somali nhưng vẫn cứ thích đi tàu hoả không chẳng vì nó an toàn hơn ôtô giường nằm mà nó tiện cho việc đi toilet và hút thuôc.Hơn nữa tiền vé của lão được bớt 10% vì trên 60 tuổi.Nhưng thôi cũng phải cám ơn anh Ngọ đã cho mình có cái cảm giác đầu tiên về đi xe lửa xuyên việt,và hơn cả là những bức ảnh dọc đường gió bụi.Mà cũng phải cảm ơn con Sony Ericsson nhà mình đã đột xuất cho ra những bức ảnh đẹp thần kỳ.

       Chúng tôi đón taxi về nhà anh Ngọ, Ngay buổi chiều,chúng tôi vội đi thăm nhà ông ngoại vợ tôi gần đó,thăm viếng các nhà hàng xóm và các truòng học trong khu vực Gia Hội.
              Về thăm Huế những lần trước đây mình đi theo đoàn của trường, tuân thủ một hành trình . . .lướt qua và để lại những nuối tiếc trong lòng.Nhưng đó lại là phong cách thời thượng của các công ty du lịch,vả chăng người đi chơi cũng mấy ai có thói quen nghiên cứu,tìm tòi ?! Về thăm Huế lần này mình để tâm hơn về đời sống Huế và những gì Huế đã chưa được khám phá hoặc chưa được khai thác du lịch nhiều.Tuy nhiên mình cứ đắn đo mãi,nếu nói sâu về Huế thì cái mặt nổi của Huế chẳng ai quan tâm đã thay đổi được đến đâu ? Lại có khi người xem trách mình cạn nghĩ, vùng trời trước mặt còn chưa biết thì cần biết chi những nẻo xa xôi ?

          Thú thật là mình ra Huế thăm quê vợ giờ đây chỉ còn là lần theo dấu xưa của gia đình đã một thời sống ở đấy để lại.Cả gia đình bên vợ mình đã vào SG định cư từ giữa thập niên 60 khi chiến cuộc lan rộng chỉ còn mỗi Bà Cô là Sư Bà Từ Nhơn,quý danh Nguyễn Khoa Diệu Tuyền,em ruột của ông ngoại còn ở lại Huế.Bà đi tu từ năm lên tám tại nhà từ đường dòng họ Nguyển Khoa ở thôn Tây Thượng,sau 75 cải gia vi tự với tự hiệu là Tịnh Nghiêm Ni Tự do bà trụ trì. Bà cũng đã mất cách đây không bao lâu tại chùa thọ gần trăm tuổi, tháp đặt trong chùa.Còn nhớ năm 1999, mình ra thăm Bà tuy đả 92 nhưng vẫn còn khoẻ,ân cần hỏi thăm các cháu làm ăn sinh sống ra sao ?.Đến năm 2000 mình ra Bắc ghé vào Huế thăm Bà thì Bà đã bị loà và chỉ sống thêm vài năm nữa là viên tịch.


          Chuyện kể lại Bà và người anh ruột (tức ông ngoại mình là Nguyễn Khoa Lan)  mồ côi cha từ bé,nên rất thương yêu bảo bọc nhau mà sống.Ông ngoại mình đã cố công học hành sau đỗ đạt kỹ sư Công chánh, đã tham gia xây dựng biết bao công trình đường xá,cầu cống,đình chùa miếu tự ở miền Trung trong đó nổi  tiếng là con đường 9 Nam Lào nên rất được người dân thương yêu kính trọng.Chính ông đã định tâm cho người em gái của mình coi sóc ngôi từ đường Nguyễn Khoa sau cải thành chùa liền với chùa Ba La Mật (Nam) và Tịnh Nghiêm (Nữ) nằm cuối đường về thôn Vỹ Dạ.

           Hôm mình ghé thăm chùa Tịnh Nghiêm may mắn đúng vào ngày giỗ hiệp kỵ nên được mời ăn chay một bữa ngon lành 

           Do công việc đường xá lao nhọc bao năm,ông Ngoại vợ mình đã mất vì bạo bệnh năm 1968 và được táng tại chùa Bảo Quốc,cũng là một chùa Tổ .Chùa này nằm trên đường lên đàn Nam Giao,Núi Ngự Bình là một chùa cổ mình không biết thành lập chính xác tự năm nào ( cuồi thế kỷ 17 ?), chỉ biết trên đó có trường Phật học dành cho các tăng ni khắp nơi đến tu tập.
             Chùa Bảo Quốc tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm 1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự" có ghi dòng chữ: "Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề". Tương truyền Chùa Bảo Quốc có một giếng nước Long mạch chỉ dùng cho các Vua Chúa :"Giếng Hàm Long (tên chữ là Hàm Long Tĩnh), theo bia “Hàm Long Tỉnh” thì Giếng Hàm Long nằm ngay dưới chân đồi Hàm Long xuất hiện cùng thời với Hoà thượng Giác Phong khai sơn (khoảng năm 1674). Giếng có một mạch nước theo lỗ đá phun ra như vòi rồng, có nước trong, thơm và ngọt. Nước giếng này sau đó được tiến dâng lên các Chúa, còn người dân thì tuyệt đối không được phép dùng, từ đó nó trở thành một giếng thiêng, giếng cấm: cho nên mới có câu ca dao:
                                          Nước giếng Hàm Long đã trong lại ngọt;
                                          Em thương anh rầy có Bụt chứng tri

Hoặc là :
                                        Chùa Hàm Long thơm trong giếng cấm,
                                        Diêm tiêu nào ngăn được nước trong." 


            ( Theo TTVH Phật Giáo Liễu Quán :http://www.lieuquanhue.vn/index.php/7/29/3117.html)
           Ấy là mình cố nói cho ngọn ngành để dẫn dắt các bạn đi thăm Huế có cái nhìn sâu hơn về Phật Giáo ở Huế,không chỉ có mỗi cái chùa Thiên Mụ cổ kính lâu nay cứ đi du lịch Huế lần nào cũng tới riết rồi nhàm chán lắm ru !
.............................
       Bởi thế mình cũng đành post cho các bạn xem những tấm ảnh Huế mình chụp trong Đại Nội và hai lăng mộ tiêu biểu của các vua triều Nguyễn nổi tiếng đẹp và kỳ công gần đây.Cảm nhận của mình là Huế cũng đang cố sức phục dựng lại quần thể di tích cố đô Huế một thời tan hoang vì chiến tranh khốc liệt,kể cả tranh thủ viện trợ ODA của Nhật để khôi phục lại Tử Cấm Thành đã thành bình địa bỏ phế lâu nay.



         Xem các cảnh trí này mới thấy các vua triều Nguyễn ngày xưa cũng rất chú ý đến khoa địa lý,phong thuỷ,khoa mộc xây dựng cung đình, quan tâm phát triển văn hoá nghệ thuật,nhất là nghệ nhân ngành điêu khắc tạc tượng,mỹ nghệ,cung phi mỹ nữ,ca nhạc cung đình . . .Cũng nhờ sự quan tâm này mà các ngành nghề trên phát triển thành kỹ xảo trong một thời gian dài hằng trăm năm, đến bây giờ lại phát vì phục dựng phục chế bảo tồn !


          Công lao to lớn của các vị vua là giải quyết được công ăn việc làm cho dân phu nghèo đói,nhưng chúng ta cũng không quên vụ nổi loạn "Chày vôi" năm 1866 : một đám binh lính và dân công vì đói và phải làm cật lực cho việc xây lăng Tự Đức mau hoàn tất sớm đã bạo loạn lôi kéo mọi người lật đổ ngai vàng .Họ như châu chấu đá xe và bị tàn sát cả gia đình,dòng tộc.Sau vụ này vua Tự Đức phải đổi tên lăng từ Vạn Niên Cơ sang Khiêm Cung và dân tình xuất hiện câu vè ca thán :
                                             " Vạn Niên là Vạn Niên nào ?
                                             Thành xây xương lính,hào đào máu dân ! "
          Đấy là chuyện cái lăng của một ông vua được cho là giỏi thi phú nhất triều Nguyễn,Ông cho làm tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” như trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử.



        Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.(Wikipedia) Không hiểu bằng cách nào hồi ấy người ta đã khiêng được tấm đá 20 tấn từ Thanh Hoá lên đến Khiêm cung này ?! Mình nghe nói cái Đện Cần Chánh cứ xập xà xập xình nghiên cứu dự án tới lui dậm chân tại chỗ chờ Nhật hỗ trợ.

... 
          Theo mình nghĩ thành quả nào mà không đánh đổi bằng xương máu và mồ hôi nước mắt ?Ấy vậy mà nó vẫn cứ lập nên và biến đi theo thời gian,cũng chỉ vì sự đối kháng luôn có trong thiên nhiên và con người. Chừng nào con người nhận thấy giá trị lịch sử chân chính của di tích có mang lại lợi ích về vật chất tinh thần cho cộng đồng trong tương lai thì mới có quyết tâm phục dựng hiệu quả di tích.Không chừng lúc đó lại mở rộng quy mô nũa là !


         Tôi đọc được đoạn này hay hay là tâm tư của một HDV du lịch,nhưng cũng là chống chế cho qua phà,mời các bạn xem :
      " Mười mấy năm trước, có đoàn khách Bắc Âu đi Xuyên Việt 10 ngày từ TP.HCM ra Hà Nội.
Nghe tôi giới thiệu về lịch sử Việt Nam, vừa đi qua Nha Trang, có vị khách thắc mắc:

 Không hiểu tại sao một dân tộc có bề dày oai hùng như Việt Nam lại không có công trình nào tầm cỡ để lại cho đời?Bên cạnh nước các bạn, Trung Quốc có Vạn Lý Trường Thành, Campuchia có Angkor?...”
      Quá bất ngờ vì lâu nay chưa ai hỏi như vậy, cũng chưa có sách nào dạy, tôi chỉ biết cười (để kéo dài thời gian suy nghĩ) rồi chống chế: “Các bạn cứ tự tìm hiểu xem sao. Trước khi các bạn rời Việt Nam sẽ có câu trả lời”. Tôi lập tức điện thoại trao đổi với các đồng nghiệp. Người thì bảo: “Do Việt Nam thường xuyên có chiến tranh”. Người lại nói: “Bởi phong kiến nước ta chưa đủ mạnh”... Ý kiến nào cũng vô lý. Hồi xưa, nước nào chẳng chiến tranh liên miên mà Trung Quốc là số 1. Vạn Lý Trường Thành được xây dựng từ thời Xuân Thu sang Chiến Quốc đến Thập Quốc và nhà Minh. Các nước khác cũng vậy. Đừng đổ tội cho chiến tranh, nhất là khi nó đã đi qua mấy chục năm! Nếu phong kiến Việt Nam chưa đủ mạnh làm sao có thể là dân tộc duy nhất 3 lần đánh bại đế quốc Nguyên Mông vào năm 1258, 1285 và 1288; góp phần buộc chúng suy vong. Nên nhớ dân số Đại Việt lúc đó khoảng 3 triệu người phải chống lại nửa triệu quân thiện chiến Mông Cổ. Đạo quân của Thành Cát Tư Hãn làm bá chủ từ Âu sang Á, đi tới đâu thì cỏ không mọc nổi nhưng 3 lần đến Việt Nam, cả 3 lần đại bại.  



          Đang rối bời khi qua Huế, vào viếng lăng Tự Đức còn gọi là Khiêm Lăng hay Vạn Niên Thành, nghe lại phần giới thiệu của bạn An Hòa - hướng dẫn viên ở Huế, tôi mừng hơn trúng số. “Lăng Tự Đức dự kiến xây trong 8 năm nhưng để lấy lòng vua, mấy viên quản lý rút ngắn thời gian một nửa còn 4 năm. Hậu quả của việc tăng cường độ lao động, thiếu ăn, bệnh tật, đói rét là chết chóc. Những người phu xây lăng nổi dậy. Họ lấy chày giã vôi đập chết các quan lại rồi liên minh với cuộc khởi nghĩa từ bên ngoài của anh em Đoàn Trưng định kéo về lật đổ triều đình. Như châu chấu đá voi, cuộc nổi dậy bị dập tắt trong biển máu”. Gần 150 năm sau, hậu duệ của những người xây Khiêm Lăng còn ca thán: 

                                    Vạn Niên là Vạn Niên nào
                                    Thành xây xương lính, hào đào máu dân!
                                                                                                          (Ca dao) 

              Khiêm Lăng rộng chưa tới 1 km2 mà còn ai oán vậy! Giữ đúng lời hứa, khi đoàn từ Hà Nội ra sân bay Nội Bài, tôi đã trả lời: “Hôm trước, khi qua thành phố biển Nha Trang xinh đẹp, có bạn trong đoàn đã hỏi tôi là nước Việt Nam có lịch sử oanh liệt lâu đời sao không có công trình nào để lại cho đời ngưỡng mộ. Với những người lần đầu tiên đến đây như các bạn thì đó là câu hỏi khó, nhưng với mỗi người dân Việt Nam chúng tôi thì ai cũng có thể trả lời (điều này hơi nói quá). Bởi một lẽ giản đơn là tổ tiên chúng tôi không đủ ác, lấy xương máu của nhân dân làm nên những công trình chỉ có tính chất khoe mẽ và phục vụ cho một thiểu số thống trị. Tổ tiên chúng tôi không để lại Vạn Lý Trường Thành hay Angkor nhưng hệ thống đê điều chống lụt ở miền Bắc và hệ thống kênh rạch chống lũ ở miền Nam của chúng tôi dài gấp mấy lần Vạn Lý Trường Thành. Nhờ công trình giản đơn, thiết thực, hiệu quả, phục vụ cho quốc kế dân sinh này; cha ông chúng tôi vượt qua được những thử thách hết sức ác liệt, nghiệt ngã và dữ dội của thiên nhiên, tồn tại cho tới ngày hôm nay để đưa các bạn đi chơi, bằng không, chúng tôi đã trôi ra biển!” 
         Nghe vậy, đoàn tròn xoe mắt ngạc nghiên và vỗ tay. Tôi nói đại, cũng hơi run, chẳng biết đúng sai thế nào, chỉ sợ mất quan điểm. Ai có câu nào hay hơn xin chỉ dùm.



         Huế bây chừ đang cố gắng phục dựng trùng tu các di tích trong quần thể di tích cố đô Huế để phục vụ du lịch trong nước và du khách nước ngoài.Như mình đã nói trong các bài trước,tiến độ còn rất chậm vì ngân sách rất hạn chế (mỗi năm nghe nói được giải ngân khoảng 50-60 tỷ VN đồng ) nên chờ xin Nhật giúp phục dựng lại khu điện Cần Chánh trong Đại Nội.Theo dự kiến thì đến 2020 có thể cơ bản phục dựng lại hoàn chỉnh các cung điện trong hoàng thành,lúc đó bác Bình về hưu chưa nhỉ ?
         Còn về sông Hương thì ngàn năm vẫn thế :
                           "Ngọ Môn năm cửa chín lầu
                           Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng
                            Đi mô cũng nhớ quê mình
                            Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh"
                                                                           (Ca dao VN)
Hoặc giả :
                         "Trước bến Văn Lâu
                          Ai ngồi ai câu
                          Ai sầu ai thảm
                          Ai thương ai cảm
                          Ai nhớ ai mong
                          Thuyền ai thấp thoáng bên sông
                          Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non."
                                                                            (Ca dao VN)

         Hãy nghe thử  bài hát " Đêm tàn Bến Ngự" thì biết !

         Lọ là :
                        " Hương giang thơ mộng hữu tình,
                        Thuyền Rồng bến Ngự còn . .  rình gái tơ "


   
Mời các bác và các anh chị xem một trích đoạn dưới đây để mở rộng tầm mắt  :                                                                                " Vị vua đa tình”  (Cadao.org, 8/3/2012)
               Vua Thành Thái có rất nhiều cung phi và con cái. Đến giờ trong gia phả của Nguyễn Phước Tộc cũng chỉ nói chung chung chứ không có con số chính xác về các vị cung phi cũng như hoàng tử, hoàng nữ của vua Thành Thái. Bên cạnh là một vị vua yêu nước, vua Thành Thái cũng nổi tiếng là một vị vua đa tình. Đó là lý do ông có rất nhiều vợ.
         Có lần nghe đồn trên Kim Long, con gái rất xinh đẹp, dễ thương, lại hầu hết xuất thân từ những gia đình có văn hóa, nền nếp, vua Thành Thái đã quyết định vi hành lên Kim Long đúng ngày mùng 1 Tết, với hi vọng tìm được một Quý phi. Đến nơi, nhìn mãi mà không thấy ai vừa ý, Vua Thành Thái thất vọng liền cho đò quay về. Nhưng đúng lúc đó thì bất ngờ có một cô gái tuổi chừng đôi mươi, tuy mặc áo vá vai và đang chèo đò nhưng đôi má ửng hồng và ánh mắt long lanh, vua lập tức thấy lòng xao xuyến, rộn lên một niềm cảm mến kỳ lạ.
          Vua liền hỏi: “Ni, o tê! O có muốn lấy vua không để tôi làm mối cho”. Cô gái lái đò ban đầu nói đến vua thì sợ phạm tội khi quân nên lắc đầu sợ hãi, thế nhưng được sự động viên của những người ngồi trên đò và sự khuyến khích của vị vua vi hành, cô đã gật đầu đồng ý. Đến lúc đó, vua Thành Thái liền nói: “Vậy Quý phi hãy ngồi nghỉ để trẫm chèo cho”.           
          Nói xong vua Thành Thái liền thay vị Quý phi tương lai chèo đò, trước con mắt ngạc nhiên của những vị khách có trên đò. . ."                                                               
          Hoặc như Trần Thiện Thanh,một vị nhạc sỹ tài hoa đã viết :
              " Tôi không phải là Vua nên mộng ước thật bình thường,
                Như yêu một loài hoa trên vùng đá sỏi buồn phiền,
                Loài hoa không hương không sắc màu . . .
                Nhưng loài hoa biết khép lá ngây thơ . . ."
                                                        (Hoa trinh nữ )
 
  
        Người con gái Huế tất nhiên không chỉ dành riêng cho Huế.Họ có mặt khắp mọi nơi không chỉ ở VN,đa số có học thức,chịu thương chịu khó và thành đạt do thừa hưởng một gia phong nghiêm khắc,lấy lễ giáo làm đầu.Tuy là bạn tử tế,đẹp trai,tài giỏi cô nàng rất ưng trong bụng,nhưng cũng vẫn còn e ngại và chờ sự quyết định của gia đình,có khi chẳng thành vì lỗi lỡ thề hẹn trên chùa Thiên Mụ hoặc cùng nhau ăn bún bò Kim Long ! 
        Tình riêng ôm ấp trong lòng nên :
                     "Chiều chiều trước bến Vân Lâu,
                     Ai ngồi ai câu,
                     Ai sầu ai thảm,
                    Ai thương ai cảm,
                    Ai nhớ ai mong..........."
                                                (Dân ca Huế)
           Trong lịch sử,Huế luôn phải chịu đựng mọi phong ba bão táp,phúc hoạ vô lường khiến Huế thơ mộng mang vẻ trầm tư mặc cảm, dù lòng người luôn dậy sóng tự hào là vùng đất Thần Kinh ! (Huế,Tình yêu của tôi - Cẩm Ly
        Huế mâu thuẫn đối chọi nhau là thế.Cái kiểu Huế đã đuọc Trần Khiêm Đoàn một người con xứ Huế viết :
           "Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch)
          Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào. . ." 

  .
..          Xét về tính mâu thuẫn trên và xem lại truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì ta cũng có thể hiểu rằng trong cuộc sống làng chài trên Sông Hương hiện tại, ngoài những chiếc thuyền rồng to đẹp đưa khách du lịch đi ngoạn cảnh trên sông cũng còn những mảnh đời cơ cực lênh đênh trên chiếc đò " boat rental " chào đón khách hứng tình chứ !!! Chuyện này trước 75 rất bình thường,sau đó lùi vào bóng tối và bây giờ lại được người ta mang ra ánh sáng. Hãy tìm đọc một vài bản tin trên net về "ngủ đò" trên sông Hương  sẽ thấy rõ hơn về vấn đề này.
 Nếu bạn giả làm một vị Vua hoặc một vị đại gia nào đó chắc chắn bạn sẽ được thưởng thức màn ngủ đò trên sông Hương một cách đế vương,bằng không thì chỉ nên ra ngắm bờ sông tìm em gái Huế như mình cho đỡ nhớ vậy.

     
          Mình ra ngắm sông Hương khá nhiều lần vào lúc tờ mờ sáng khi đi thể dục,trưa chiều đi bộ dạo phố phường qua cầu Tràng Tiền, rồi tối lại ngồi nhậu lai rai bên bờ sông .Nước sông Hương xanh trong sạch sẽ,gió nhẹ man mác xua tan bầu khí nóng hanh của mùa hè.Chỉ có bên bờ Bắc khu Gia Hội vẫn còn đất đá cỏ cây mọc bừa bãi lôm côm.Khúc này nhà nước đang giải toả để làm hành lang ven bờ sông cho khách bộ hành,còn con đường liền kề cho xe chạy dọc bờ sông  được mang một tên mới là Trịnh Công Sơn  .Từ bờ Bắc nhìn sang bờ Nam thì sẽ thấy sự khác biệt rất lớn không như dòng sông Seine ở Paris của Pháp,một bên là khu giàu có chỉ toàn nhà hàng khách sạn sang trọng còn khu kia là phố cổ với những căn nhà thấp lè tè !


    
     Một hôm nghe nói nhà nước có dự định quy hoạch Cồn Hến cho Nhật sang đầu tư làm một hòn đảo du lịch tầm vóc quốc tế, mình vội rủ anh Ngọ đi đò qua sông Hương vào Cồn Hến xem cho biết Cồn Hến sống ra sao, sợ mai này sẽ không được vào nữa ?!.
      Thế là các o lái đò neo đậu ở Cồn đua nhau í ới mời chào : "Em đưa các anh đi thăm vòng quanh Cồn Hến nhé ! Chỉ một trăm thôi mà anh tiếc với em chi ? " ," Các anh thích đi đâu em cũng chèo,về xuôi hay lên mạn ngược anh ơi ? . . .Thú thật là mình cũng muốn nhảy lên đò đi chơi một phen cho biết các o chèo chống ra sao,nhưng nhìn lai đò thấy các o dùng toàn máy Kohler chẳng thấy cái giầm nào hết nên mình cảm thấy mất hứng đành dành thời gian đi bộ dạo khắp Cồn có hơn không ?

 
         Chuyện về Sông Hương và Cồn Hến đến đây xin gác lại.Tất nhiên không thể thiếu các ảnh chụp để các bạn xem.
           Chúc các Anh Chị và các bạn một tuần mới vui khoẻ !
                                                                                                Trần tăng Quý

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..