.
…Một quan là sáu trăm đồng
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi
Chồng tôi cỡi ngựa vinh quy
Hai bên có lính hầu đi dẹp đường…
Mấy câu thơ trên trích trong bài "Trăng sáng vườn chè" ,thơ Nguyễn Bính (sau được Văn Phụng phổ nhạc) lấy ý từ bài ca dao cổ “ Đi chợ tính tiền ".Bài ca dao này đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp 3 trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ngày xưa (năm 1948). Bài ca dao kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về,phải trình bày minh bạch ,rõ ràng việc chi tiêu với chồng.
Từ 2 năm trước, tôi được người bạn cũ fw bài viết liên quan đến bài ca dao này . Đọc rồi thấy rất hay và thú vị ,qua đó mình có thêm sự hiểu biết về hệ thống và giá trị những đồng tiền cổ ngày xưa.Hôm nay, trong những ngày đầu xuân Tân Sửu, tôi mạn phép tác giả chia sẻ lên Blog để nhiều người cùng đọc.
Theo nhà báo Nguyễn Hữu Mão đăng trên
Tài Chính Thời báo năm 2016 thì : “ Bài ca
dao như một lời khen sự đảm đang của người vợ giữ “tay hòm chìa khóa” trong gia
đình biết cách tiêu tiền hợp lý, chính xác đến mức nghệ thuật khi đi chợ mua sắm.
Chắc chắn đây là một buổi người vợ đi chợ mua đồ về làm cúng giỗ, với đủ các thứ
dùng cho việc cúng lễ như: rượu, trầu cau, vàng mã, chuối, gà, thịt lợn, gạo nếp,
gạo tẻ, bột, mật, rau giá, nước mắm, chè tươi…
Bài ca dao phản ánh một thực tế là ngày xưa, nhiều chị em không được đi học, không biết
làm các phép tính trên giấy nhưng lại tính nhẩm rất tài; đem một quan tiền đi
chợ mua đồ về cúng, tính toán đâu ra đó, mua đủ đồ về nhà mà không thiếu thứ
hàng gì và cũng không “lạm chi” hay thừa ra một đồng nào.
Có người còn ví
bài ca dao này như một kịch bản văn học sinh động phục hiện hoạt cảnh giữa một
đôi vợ chồng trẻ ngày xưa. Anh chồng chắc hẳn là một người có tính đa nghi và
tật bủn xỉn “đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành” nên khi vợ vừa đi chợ về là anh
ta đã xăm soi kiểm kê và bắt phải “báo cáo tài chính” ngay tại chỗ. Chẳng phải
tay vừa, nàng giải thích đâu ra đó với sự chính xác và tự tin “có gì mà tính
chẳng thông”? Thỉnh thoảng nàng lại đệm vào những từ ngữ mỉa mai, diễu cợt ông
chồng như: “Ba mươi đồng rượu, chàng ơi (Ý nói rượu này là mua cho chàng đó
thôi!) ; hoặc “Hai chén nước mắm rõ ràng…” chàng thấy rồi đấy, đừng có hồ nghi
em bớt tiền chợ để ăn quà vặt đâu nhé!
Thế nhưng, ngày nay để hiểu bài ca dao này cho tường tận thì
trước hết ta cần phải biết về tỷ giá quy đổi chính xác giữa 3 đơn vị tiền tệ
nêu trong bài ca dao đó là: “quan”, “tiền” và “đồng”.
Theo các tư liệu
nghiên cứu về tiền tệ của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, 1 quan có giá trị
là 10 tiền, còn 1 tiền bằng bao nhiêu đồng lại tùy theo quy định của mỗi triều
đại. Từ thời nhà Lê thì 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng nên 1 quan bằng
600 đồng. Kể từ đó hệ thống đơn vị tiền tệ này được dùng ổn định trong hơn 500
năm qua các đời vua Lê, sang nhà Mạc, đến thời Lê trung hưng cho tới nhà Nguyễn
và chỉ chấm dứt, khi chế độ phong kiến Việt Nam kết thúc năm 1945.
Nếu ai yêu thơ
Nguyễn Bính có lẽ vẫn nhớ bài thơ “Thời trước” được ông sáng tác năm
1936, trong đó có hai câu:
“Một
quan là sáu trăm đồng
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi”…
Dựa trên từng câu
ca dao, tôi xin ghi ra đây bản “báo cáo tài chính” của nàng với mỗi món đều
tính ra đồng như sau: gà 180 đồng; gạo nếp 90 đồng; trầu 3 đồng; cau 6 đồng;
thịt lợn 90 đồng; rau giá 10 đồng; gạo tẻ 90 đồng; chè tươi 6 đồng; rượu 30
đồng; mật đường 30 đồng; vàng mã 20 đồng; nước mắm 14 đồng; bột nấu chè 21đồng;
nải chuối 10 đồng.
Cộng tất cả 14 khoản mua sắm trên đây vừa vặn đúng 600 đồng, tức
1 quan tiền. Không thừa, không thiếu đồng nào!
Nhân những ngày nghỉ
Tết , xin mời
các “nhà tài chính” và bạn đọc thử lấy máy tính ra để cộng xem có đúng 600 đồng
không? “.
Song từ xuân Bính Thân 2016 đến nay ,chưa thấy ai trong nước lên tiếng trả lời nhà báo Hữu Mão .Nhưng ở nước ngoài ,trên văn đàn nào và thời gian không rõ trong bài viết mà người bạn sưu tầm gửi cho , thì vấn đề khá rõ ràng vì vấn đề đã được giải quyết đâu ra đó .
“ Ngày xưa
khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa,đồng thời nêu bật tính đảm
đang,khéo vén của người phụ nữ xưa....sau đó yêu cầu học sinh học thuộc.Thầy
không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ,có lẽ vì thời thế đã khác đồng tiền
cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.(Khoảng năm
1958,chưa được vào trường công lập,người viết học với ông giáo... ở khoảng
giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, (không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải
Triều không?) Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi
ôm tóc trắng... một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ
không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa
ấy.Bèn tìm giấy giải thử.
Ngay câu thơ
đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn."Một quan tiền tốt mang đi".Một quan là
bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ,những người muôn năm cũ giờ không còn,biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang
vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:
“ Một quan là
sáu trăm đồng.
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.”
(Thơ của
Nguyễn Bính).
Vận dụng cả 4
phép tính cộng trừ nhân chia,đảo xuôi ngược,lên xuống...mãi vẫn không đủ 600 đồng
cho một quan tiền!
Lại phải đi
tìm trong lịch sử.Trong một ngàn năm Bắc
thuộc,dân Việt không có đồng tiền riêng . Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan
quân Nam Hán ,dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm
968,Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân ,lên ngôi hoàng đế với đế hiệu
Đinh Tiên Hoàng,niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền
Thái Bình Hưng Bảo.Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt.Từ đó
tiếp đến những triều đại sau đều theo .
Đơn vị để
tính tiền xưa gồm có :quan,tiền ,đồng.Mỗi quan có giá trị là 10 tiền,mỗi tiền bằng
bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại.Theo sử sách giá trị đồng tiền
các thời đại như sau:
1/ Năm
1225,vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 70
đồng.
2/ Năm 1428
vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm
1439,vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền ,1 tiền bằng 60 đồng.
Như vậy 1
quan=10 tiền=600 đồng.
Từ đó các
triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này,cho đến cuối
triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905,
chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành
loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau
ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo,
Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.
Trong những
đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo
và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được
dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc
chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải
là các phép tính đã giải.
ĐI CHỢ TÍNH TIỀN
Một quan tiền tốt
mang đi,
600
Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
3x60 = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu. 60+30+3 =
93
Trở lại mua sáu đồng cau, = 6
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng. (1,5x60)+10 =
100
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi. 60+30+6 = 96
Ba mươi đồng rượu chàng ơi,
= 30
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng. 30+20 =
50
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi. 2x7 = 14
Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè, = 21
Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan. = 10
CỘNG = 600
Trong sách QVGKT, bên
dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:
"GIẢI NGHĨA: Tiền tốt = tiền
tiêu được.
Vàng = đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.
Hồ nghi =
ngờ vực,không biết rõ".
Những giải
nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu,dễ nhớ. Đi
chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện
đương nhiên. Nhưng sao gọi làtiền tốt? Một bài cao dao được lưu truyền, được in
trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến
thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi
tìm tiếp.
Có một giai
thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm.Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền
bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn
chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài
thơ trách người cho mượn tiền:
Sao
nói rằng năm chỉ có ba.
Trách
người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ
hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ họa lại:
Rằng
gián thì năm,quý có ba.
Bởi
người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài họa của
Chiêu Hổ có chữ gián và quý.Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã
"có công tất ...chồng không phụ", kết quả đã tìm được:
Khoảng thế kỷ
18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền
gián, tỷ lệ như sau: 1quan quý = 600đồng.
1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.
Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không
nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền
thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:
Quan quý : 3x600 =1800 đồng
1800:360 = 5 quan gián
Giá trị của các loại
tiền xưa như thế nào? Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.
-Quan Nhất Phẩm
lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
-Quan Chánh ngũ phẩm,
hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
-Lính, thơ lại, phục
dịch ...lương mỗi tháng 1quan tiền, 1
phương gạo.
Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ
...quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước...để được làm quan! Chẳng trách người phụ nữ " thời
xưa"(tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm
những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng... cùng nhau trãi trọn
trong một đêm trăng!
Qua những số
liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao "Đi chợ tính tiền" xuất
hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền TỐT"mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý,
phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được,người phụ nữ trong
một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc
phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây
Thật thú vị, để giải
bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những
bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có
Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ?
Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến... đã thấy chồn
chân chẳng muốn trèo ! “
……………………………………………………………………………….
Bài hát liên quan
Trăng sáng vườn
chè (nhạc Văn Phụng – Thơ Nguyễn Bính)
Mru mời bạn Click
nghe dạng mp3 https://mp3.zing.vn/bai-hat/Trang-Sang-Vuon-Che-Ai-Van/ZWZBW8EC.html?fbclid=IwAR0h5BOGZLKHevQ4WC6b0VvtBVcirdPAyGQSObeob_7-PcL6mPeOAsS59OI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét