26 thg 2, 2021

ĐẦU XUÂN ĐỌC LẠI MỘT BÀI CA DAO CỔ - " ĐI CHỢ TÍNH TIỀN "

.


Một quan là sáu trăm đồng
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi
Chồng tôi cỡi ngựa vinh quy
Hai bên có lính hầu đi dẹp đường
                     

      Mấy câu thơ trên trích trong bài "Trăng sáng vườn chè" ,thơ Nguyễn Bính (sau được Văn Phụng phổ nhạc) lấy ý từ bài ca dao cổ “ Đi chợ tính tiền ".Bài ca dao này đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp 3 trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ngày xưa (năm 1948). Bài ca dao kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về,phải trình bày minh bạch ,rõ ràng việc chi tiêu với chồng.



        Từ 2 năm trước, tôi được người bạn cũ fw bài viết liên quan đến bài ca dao này . Đọc rồi thấy rất hay và thú vị ,qua đó mình có thêm sự hiểu biết về hệ thống và giá trị những đồng tiền cổ ngày xưa.Hôm nay, trong những ngày đầu xuân Tân Sửu, tôi mạn phép tác giả chia sẻ lên Blog để nhiều người cùng đọc.

         Theo nhà báo Nguyễn Hữu Mão đăng trên Tài Chính Thời báo năm 2016 thì : “ Bài ca dao như một lời khen sự đảm đang của người vợ giữ “tay hòm chìa khóa” trong gia đình biết cách tiêu tiền hợp lý, chính xác đến mức nghệ thuật khi đi chợ mua sắm. Chắc chắn đây là một buổi người vợ đi chợ mua đồ về làm cúng giỗ, với đủ các thứ dùng cho việc cúng lễ như: rượu, trầu cau, vàng mã, chuối, gà, thịt lợn, gạo nếp, gạo tẻ, bột, mật, rau giá, nước mắm, chè tươi…

      


       Bài ca dao phản ánh một thực tế là ngày xưa, nhiều chị em không được đi học, không biết làm các phép tính trên giấy nhưng lại tính nhẩm rất tài; đem một quan tiền đi chợ mua đồ về cúng, tính toán đâu ra đó, mua đủ đồ về nhà mà không thiếu thứ hàng gì và cũng không “lạm chi” hay thừa ra một đồng nào.

         Có người còn ví bài ca dao này như một kịch bản văn học sinh động phục hiện hoạt cảnh giữa một đôi vợ chồng trẻ ngày xưa. Anh chồng chắc hẳn là một người có tính đa nghi và tật bủn xỉn “đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành” nên khi vợ vừa đi chợ về là anh ta đã xăm soi kiểm kê và bắt phải “báo cáo tài chính” ngay tại chỗ. Chẳng phải tay vừa, nàng giải thích đâu ra đó với sự chính xác và tự tin “có gì mà tính chẳng thông”? Thỉnh thoảng nàng lại đệm vào những từ ngữ mỉa mai, diễu cợt ông chồng như: “Ba mươi đồng rượu, chàng ơi (Ý nói rượu này là mua cho chàng đó thôi!) ; hoặc “Hai chén nước mắm rõ ràng…” chàng thấy rồi đấy, đừng có hồ nghi em bớt tiền chợ để ăn quà vặt đâu nhé!

        Thế nhưng, ngày nay để hiểu bài ca dao này cho tường tận thì trước hết ta cần phải biết về tỷ giá quy đổi chính xác giữa 3 đơn vị tiền tệ nêu trong bài ca dao đó là: “quan”, “tiền” và “đồng”.

     Theo các tư liệu nghiên cứu về tiền tệ của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, 1 quan có giá trị là 10 tiền, còn 1 tiền bằng bao nhiêu đồng lại tùy theo quy định của mỗi triều đại. Từ thời nhà Lê thì 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng nên 1 quan bằng  600 đồng. Kể từ đó hệ thống đơn vị tiền tệ này được dùng ổn định trong hơn 500 năm qua các đời vua Lê, sang nhà Mạc, đến thời Lê trung hưng cho tới nhà Nguyễn và chỉ chấm dứt, khi chế độ phong kiến Việt Nam kết thúc năm 1945.

       Nếu ai yêu thơ Nguyễn Bính có lẽ vẫn nhớ  bài thơ “Thời trước” được ông sáng tác năm 1936, trong đó có hai câu:

                   “Một quan là sáu trăm đồng

                  Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi”…

       Dựa trên từng câu ca dao, tôi xin ghi ra đây bản “báo cáo tài chính” của nàng với mỗi món đều tính ra đồng như sau: gà 180 đồng; gạo nếp 90 đồng; trầu 3 đồng; cau 6 đồng; thịt lợn 90 đồng; rau giá 10 đồng; gạo tẻ 90 đồng; chè tươi 6 đồng; rượu 30 đồng; mật đường 30 đồng; vàng mã 20 đồng; nước mắm 14 đồng; bột nấu chè 21đồng; nải chuối 10 đồng.

Cộng tất cả 14 khoản mua sắm trên đây vừa vặn đúng 600 đồng, tức 1 quan tiền. Không thừa, không thiếu đồng nào!

      Nhân những ngày nghỉ Tết , xin mời các “nhà tài chính” và bạn đọc thử lấy máy tính ra để cộng xem có đúng 600 đồng không? “.

         Song từ xuân Bính Thân 2016 đến nay ,chưa thấy ai trong nước lên tiếng trả lời nhà báo Hữu Mão .Nhưng ở nước ngoài ,trên văn đàn nào và thời gian không rõ trong bài viết mà người bạn sưu tầm gửi cho , thì vấn đề khá rõ ràng vì vấn đề đã được giải quyết đâu ra đó .

         “ Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa,đồng thời nêu bật tính đảm đang,khéo vén của người phụ nữ xưa....sau đó yêu cầu học sinh học thuộc.Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ,có lẽ vì thời thế đã khác đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.(Khoảng năm 1958,chưa được vào trường công lập,người viết học với ông giáo...  ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, (không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng... một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy.Bèn tìm giấy giải thử.

          Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn."Một quan tiền tốt mang đi".Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ,những người muôn năm cũ  giờ không còn,biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

       “ Một quan là sáu trăm đồng.

        Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.”

                                      (Thơ của Nguyễn Bính).

         Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia,đảo xuôi ngược,lên xuống...mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền! 

          Lại phải đi tìm  trong lịch sử.Trong một ngàn năm Bắc thuộc,dân Việt không có đồng tiền riêng . Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán ,dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968,Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân ,lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng,niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo.Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt.Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo .

          Đơn vị để tính tiền xưa gồm có :quan,tiền ,đồng.Mỗi quan có giá trị là 10 tiền,mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại.Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:

          1/ Năm 1225,vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 70 đồng.

          2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 50 đồng.

          3/ Năm 1439,vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền ,1 tiền bằng 60 đồng.

          Như vậy 1 quan=10 tiền=600 đồng.

             Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này,cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.

             Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ  cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

            Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.

            Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.

    ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

 Một quan tiền tốt mang đi,                                                                  600   

Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.

Thoạt tiên mua ba tiền gà,                                         3x60    =           180

Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.                   60+30+3    =            93

Trở lại mua sáu đồng cau,                                                    =              6

Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.     (1,5x60)+10   =           100

Có gì mà tính chẳng thông?

Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi.                  60+30+6     =            96

Ba mươi đồng rượu chàng ơi,                                              =            30

Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.               30+20   =            50 

Hai chén nước mắm rõ ràng,

Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi.                     2x7     =             14

Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè,                                         =             21

Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan.                           =             10

                                                                                 CỘNG   =          600

 Trong sách QVGKT, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:

"GIẢI NGHĨA: Tiền tốt            =     tiền tiêu được.

                          Vàng             =     đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.

                          Hồ nghi         =       ngờ vực,không biết rõ".

        Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu,dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi làtiền tốt? Một bài cao dao được lưu truyền, được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.

        Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm.Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có  3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:

                 Sao nói rằng năm chỉ có ba.

                 Trách người quân tử hẹn sai ra.

                 Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.

                 Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

        Chiêu Hổ họa lại:

                       Rằng gián thì năm,quý có ba.

                       Bởi người thục nữ tính không ra.

                       Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.

                       Cho cả cành đa lẫn củ đa.

     Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý.Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã "có công tất ...chồng không phụ", kết quả đã tìm được:        

          Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1quan quý = 600đồng.   1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.

Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:

                      Quan quý :      3x600  =1800 đồng

                               1800:360 =   5 quan gián

   Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào? Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.

    -Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.

   -Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.

   -Lính, thơ lại, phục dịch  ...lương mỗi tháng 1quan tiền, 1 phương gạo. 

Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ ...quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước...để được làm quan!  Chẳng trách người phụ nữ " thời xưa"(tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng... cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng!

         Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao "Đi chợ tính tiền" xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền  TỐT"mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được,người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây 

        Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến... đã thấy chồn chân chẳng muốn trèo ! “

 ……………………………………………………………………………….

Bài hát liên quan

Trăng sáng vườn chè (nhạc Văn Phụng – Thơ Nguyễn Bính)

Mru mời bạn Click nghe dạng mp3            https://mp3.zing.vn/bai-hat/Trang-Sang-Vuon-Che-Ai-Van/ZWZBW8EC.html?fbclid=IwAR0h5BOGZLKHevQ4WC6b0VvtBVcirdPAyGQSObeob_7-PcL6mPeOAsS59OI


Không có nhận xét nào:

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..