Chia sẻ from "Bà Hồ Xuân Hương Tân Biên Liệt truyện " của Phí Ngọc Hùng.
***

Hà Thành mới chớm xuân, giải hanh vàng trải ngập đường ngập ngõ, cụ Cử Nghi Tàm đang lúi húi với mấy giò lan đất xanh xao vàng kịt vì cái rét ngọt năm rồi. Cụ lẩn thẩn bước vào nhà, vừa đi vừa lẩm nhẩm cửa tiên công khi xây đắp đỉnh chung, mấy thu tròn tìm thú cỏ hoa, chăn thúy vũ những bèo trôi xốc nổi....Ngày trời tháng bụt của cụ là vậy, khi trưa phơi sách khi chiều tưới cây, vì cụ quy điền đóng cửa tạ khách đã lâu. Con ngõ làng Nghi Tàm nhà cụ xuân thu nhị kỳ mới có cổ kim hiền hữu năng tầm, chợt nhớ đến bài phú của ông đồ bát nháo nào đó một buổi chiều thanh thản, chợt nghĩ đến người bạn tri âm, lâu năm không gặp. Vừa lúc nghe tiếng lạch cạch ngòai cổng, nhìn ra thì đúng là người mình nghĩ đến.
Cụ rít một hơi thuốc lào và vẩn vơ tri giao quái ngã sầu đa mộng như thế đấy thì thóang có tiếng lạch cạch ngòai cổng thật. Hóa ra ông Tú bên Tây Hồ. Cụ bụng bảo dạ, ông Tú đây cũng đỏang, chùm chăn cả năm nằm co như con nghén, con tằm giờ mới chịu chui ra. Ông Tú Quảng Bá mặc áo the thâm như ông đồ rỗi việc nên làm như chẳng rỗi hơi đi nhanh làm gì, giầy Gia Định kẹp nách, chậm rãi bước một...
Dựng cái ô ở bu cửa, ông láo ngáo:
- Này bác hay tin chưa, họ vừa tìm ra tập Lưu hương ký trong tủ sách của cụ cử Nguyễn Văn Tú, người làng Hành Thiện, Nam Định năm 1963 đấy.
Như ông Tú vội năm vội tháng đâu có vội ngày, tiện tay cụ Cử lau bộ ấm trà gia bảo Thế Đức gan gà, ngước mắt nhìn lên, buông thõng một câu:
- Úi dào! Chuyện này tôi cũng nghe hơi nồi chõ rồi. Họ chỉ làm rối chuyện lên ấy thôi. Bác còn lạ gì nữa.
Nói rồi cụ vào nhà, mang ra tập cảo thơm đóng nẹp tre đã ố vàng. Đợi cụ Cử cơi bếp xong, ông Tú vừa gật gật đầu vừa đong đảy:
- Thêm chuyện nữa, thằng Phán nhà tôi nói ông Hoàng Xuân Hãn tìm được trong thư viện bên Pháp tờ Hồ Quỳnh gia phả dán ở gáy sách Quảng Yên địa dư chí. Theo đó Hồ Sĩ Anh đời Lê, có hai người con là Hồ Thế Viêm và Hồ Phi Cơ. Nguyễn Huệ là cháu bốn đời của Hồ Thế Viêm và Hồ Xuân Hương là cháu bốn đời của Hồ Phi Cơ. Như vậy cả hai là anh em họ, cùng ông tổ năm đời của Hồ Sĩ Anh, theo gia phả ông tổ họ Hồ di dân sang cổ Việt từ thời Ngũ Đại, người Triết Giang, lập cư ở Nghệ An.
Cụ Cử nhấc cái siêu nước đồng con cò để lên ông đầu rau, thủng thẳng hỏi:
- Bác biết cội nguồn thế tục, còn thổ ngơi bản quán của bà, bác tính sao đây.
Ông Tú mặt nhăn quéo như táo tàu khô, giọng chao chát:
- Chậc! Ai mà bì được với bác. Theo tôi có dây mơ rễ má đến làng của bác...
Bà là con gái của ông đồ Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, Nghệ An. Sau khi cha mất, bà và mẹ về ở thôn Tiên Thị, làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương.
Cụ Cử nheo mắt, cười:
- Hay chửa kìa, bác này rõ dở hơi. Thử hỏi tôi với bác gặp nhau ở tuổi già như cây hết nhựa, ngòai ba chuyện nhai văn nhá chữ dối già, nào còn gì để nói nữa.
Nói rồi, giơ sấp giấy hoa tiên lên, cụ phân bua:
- Chả dấu gì bác, tôi cũng có bản lai cảo Lưu Hương ký. Qua lời Tựa của Tốn Phong: Khi hỏi đến tên họ, Tốn Phong mới hay biết Hồ Xuân Hương là em gái ông họ Hồ, đậu Hoàng Giáp, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Từ đó, các nhà nghiên cứu mới bạch hóa được tiểu sử và nhất là năm mất (xem tr 2) của bà Hồ Xuân Hương: Bà ở làng Hoàn Hậu nay là làng Quỳnh Đôi. Bà là con Hồ Sĩ Danh (1706-1783), chỉ đậu Hương cống (tức Cử nhân), không ra làm quan, chứ không phải con Hồ Phi Diễn, thưa bác.
Cụ châm trà từ chén tống qua chén quân rồi dẽ dàng:
- Bà dựng Cổ Nguyệt Đường bên Tây Hồ, "Cổ" và "Nguyệt" ghép thành chữ "Hồ", là nhà cô gái họ Hồ nơi "Ấm trà tiêu khát còn nghe giọng - Chén rượu mừng xuân dạ thấy say" với sĩ phu Bắc Hà đương thời để có những cuộc tình lớn, mối tình con. Bà tài hoa nên kết bạn với tao nhân mặc khách Thăng Long ngàn năm văn vật, mắc mớ gì gá nghĩa với ông Tổng Cóc. Lại nữa, nghĩa tử nghĩa tận, chả ai làm thơ khóc chồng lại diễu cợt như cóc, nhái, bén, chẫu chuộc.Bác thấy có lạ đời không cơ chứ?.
Nhưng "lạ đời" với ông Tú lại khác, ông đơm chuyện:
- Ong Tổng Cóc là chánh tổng của một tổng, cũng lớn lắm chứ lị.
Cụ Cử chậm rãi:
- Cớ sự này, tôi xin mạo muội thưa với bác như vầy...
Minh Mạng lập ra tổng khi ông "định lại bản đồ trong nước". Người cầm đầu một tổng được gọi là "cai tổng" chứ chả phải chánh tổng. Vì vậy gọi "ông tổng Cóc" vào thời bà Hồ Xuân Hương không danh chính ngôn thuận cho nhắm. Vì bà mất năm 1822, mãi đến Minh Mạng năm 1832 mới có chánh tổng.
Ông Tú thêm mắm thêm muối:
- Bác dậy sao tôi nghe vậy. Thêm sách Hồ Xuân Hương: bà chúa thơ Nôm của ông thi sĩ Xuân Diệu viết: Chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ Nghệ bị bà ra câu đối "Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới ". Sáng hôm sau, Tổng Cóc lò mò đến xông nhà đối lại "Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào", vì vậy bà mới lấy làm chồng.
Cụ Cử lắc đầu ngán ngẩm:
- Ông Xuân Diệu rõ rách chuyện, vì hai vế đối gối hạc với vế trên, vế dưới là của bà Hồ Xuân Hương qua nguyên bản: "Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đem quỷ tới - Sáng mùng một, lỏng then tạo hóa, mở toang cửa cho thiếu nữ rước xuân vào". Ông Xuân Diệu khi không mỗi vế đối của bà, ông ta cắt béng đi bảy chữ! Rõ chán mớ đời. Ấy là chưa kể ông cai tổng chữ nghĩa đào đâu ra để làm câu đối, như ba chữ..."then tạo hoá", bác thử ngẫm mà xem.
Bác còn rối chuyện hơn ông Xuân Diệu nữa: Vừa rồi bác cho hay: sau khi cụ Đồ Xứ Nghệ mất, bà và mẹ rời Nghệ An về Thăng Long. Lúc này bác lại quàng quàng 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ Nghệ là...khỉ gì. Dạ! thưa bác.
Cụ Cử đong đảy thêm...
Thêm chuyện bà làm lẽ ông Phủ Vĩnh Tường lại thậm ư vô lý hơn. Bởi Vĩnh Tường, thuộc Vĩnh Yên trước đó thời Gia Long được gọi là huyện Tam Đái. Dựa vào Đại Nam nhất thống chí quyển Sơn Tây chép: Năm 1822, Minh Mạng thấy chữ "đái" thô tục nên đổi là huyện Tam Đa. Năm 1832 Minh Mạng thứ 12 đổi thành...phủ Vĩnh Tường. Thời gian này bà Hồ Xuân Hương đã mất 10 năm trước rồi (1822). Vì vậy tôi đồ là có ông đồ bùn chữ như trấu trát nào đó sống vào thập niên 20 hay 30 làm bài thơ chết tiệt ấy chả mảy may hay thời bà chưa có cái tên..."phủ Vĩnh Tường".
Với tay cái điếu bát rồi để đó, cụ gục gặc:
- Xin thưa thêm với bác hai mối tình với ông Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tường tuyệt chả có dấu vết trong tập Lưu Hương Ký của bà Hồ Xuân Hương.
Đang định nhấp tách trà, cụ bỏ xuống và dàng dênh...
Dựa vào tựa viết của các danh sĩ trong tập Lưu Hương ký, bà gặp cụ Nguyễn Du. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng cuộc tình này xảy ra vào khoảng 1790-1793. Tiếp đến bà tất bật với Mai Sơn Phủ, Tốn Phong...Bà ngỡ an phận làm kế thiếp với Trần Phúc Hiển, chẳng bao lâu chồng chết, cuộc đời bà tang thương ngẫu lục thế đấy!.
Cụ Cử húng hắng ho khan rồi và thu vén thêm...
- Tôi xin thưa người sau dựng chuyện "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" nhưng họ không đọc sử nhà Nguyễn như Đại Nam thực lục: Chồng bà là Nguyễn Phúc Hiển từng làm tri huyện Tam Đái năm 1813. Nguyễn Phúc Hiển bị tử hình năm 1818, bốn năm sau bà mất, từ đó trong văn học sử mới hay bà mất năm 1822.
Ông Tú được thể chan tương đổ mẻ:
- Lạ vấy, Trần Phúc Hiển là chồng bà Hồ Xuân Hương sao?
Cụ Cử nhíu mày nhòm ông Tú rồi hục hặc:
- Gớm, bác rõ bát nháo thật, chả là tôi dựa vào Quốc sử di biên thời Tự Đức, Thám hoa Phan Túc Trực, người Nghệ An ghi: "Năm 1816 nữ sĩ Hồ Xuân Hương là thiếp của quan Tham Hiệp Trấn Quảng Yên Trần Phúc Hiển. Bà Xuân Hương vốn giỏi văn chương nên người đương thời khen bà là nữ tài tử .
Ừ thì biết thưa thốt thế nào đây, ngoài ra bà hanh thông Hán, Nôm, người đời thuật lại bà là người thanh tao, mẫu mực, bà học rộng, văn chương tài trí hơn người. Bà không thể viết lối văn chương phàm phu tục tử như người sau đã thêu dệt cho bà.
Như có nhẽ gì hay hớm lắm, ông Tú len chân vào chuyện chẳng đâu vào đâu:
- Tôi nghe lóm bài Đi săn chẳng phải của bà mà của cụ Nguyễn Du. Dốt như me dốt như tôi cũng thấy họ vẽ chuyện như bác dậy thật.
Đến khi rày cụ mới nguôi ngoai đôi chút và gật đầu tắp lự:
- Bài thơ tôi thấy chữ nghĩa tân thời quá, chả phải ngôn từ mộc mạc dân gian của bà. Theo tôi chỉ là văn chương phú lục mới đây thôi. Bài Đi săn cứ như chuyện ông nghiện thuốc phiện của Nhất Linh (Bắn vịt trời) vác súng đi săn vịt giời, thưa bác.
Đang ngấu chuyện bỗng không cụ lụng bụng: Thì như anh Phán nhà bác vẫn đi săn vịt giời ấy mà. Rồi cụ ngậm tăm. Ông Tú ớ ra chả hiểu gì, bởi đang tấm tức nên lát nữa sẽ hỏi sau. Trong khi đó cụ tủm tỉm cười ruồi vì ấy cũng là chuyện sau này.
Ông Tú tấm tức mãi đến giờ mới nhúc nhắc:
- Nghe thủng chuyện tôi thấy bà chỉ làm thơ trên trời dưới đất thôi.
Cụ Cử nhíu mày:
- Úi dào, bác rõ hay chửa. Thế nào là... trên trời dưới đất.
Kéo cái điếu bát gần hơn nữa, cụ gọ gạy:
- Ấy đấy, những năm tháng ở nơi chốn dân giã, bà mang phong dao tục ngữ vào thơ với âm điệu bình dị và mộc mạc: Ch(a)̉ng hạn như bài Mời trầu có hai câu thành ngữ xanh như lá bạc như vôi được bà đưa vào câu thơ "Đừng xanh như lá, bạc như vôi". Hay bài Quan thị "Đố ai biết đó vông hay trốc, còn kẻ nào hay cuống với đầu" được bà ví von từ hai câu tục ngữ ngồi lá vông, chổng mông lá trốc và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên...Đến "Bảy nổi ba chìm với nước non" của bài Bánh trôi nước....
Cụ khủng khẳng quay lại chuyện cũ:
- Năm 1802, cụ Nguyễn Duđi sứ xin phong vương cho Nguyễn Ánh, trên đường về Huế, cụ ghé Thăng Long (1804) gặp bà. Và bà có bài "Bánh trôi nước" là thế.
Ông Tú dường như chỉ đợi dịp này từ lâu để vun chuyện:
- Chậc! Tôi cứ vụng tính vụng suy bà làm bài ấy để hòai Lê.
Cụ chậm rãi mồi lửa cái đóm nứa, và từ tốn:
- Tôi chả dám luận bàn bà hòai Lê này kia. Cũng thế, có cho ăn gan giời trứng trâu tôi cũng chả dám luận thơ bà trần tục như đĩ chơi giăng này nọ mà chỉ thấy thơ bà rất gần gũi với tình tự dân gian. Ngay cụ Nguyễn Du cũng vậy, khi viết chuyện trăng hoa trong Kiều, cụ chỉ lơ thơ tơ liễu buông mành với mưa Sở mây Tần, dập dìu lá gió cành chim. Vậy mà các cụ nhà nho ta xưa cổ lỗ còn cho là dâm thư nữa là...
Đợi đóm lửa vừa tắt, dập dập cái tàn lửa, cụ búi bấn:
Chả phải đợi đến sau này, cụ Nguyễn Công Trứ cho Truyện Kiều là đọan trường cho đáng kiếp tà dâm. Bác nhớ dùm Thăng Long dân cư thời ấy, chỉ có bốn chục nghìn người là hết đất, bà giao du một số đông sĩ phu Bắc Hà như Hùng Lĩnh Xuân Mai, Ngô Ban, Hoa Đường Ngọc Như, v...v...Nếu bà có những bài thơ nhiều dâm tính như vậy, sao sĩ phu Bắc Hà không đả động gì đến bà, thưa bác.
Khi không ông Tú ngẫn ngẫn:
- Vậy chứ còn chuyện cụ Nguyễn Du với bà chúa thơ Nôm thì sao?.
Cụ Cử tặc lưỡi một cái tách như thạch sùng kêu:
- Dào, bác cứ láo ngáo như rắn ráo ấy. Ừ thì theo ký truyện...
Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San (1838-1877) viết Xuân Đường đàm thoại năm 1869 thời Tự Đức, là ký truyện về chuyện tình của hai danh sĩ qua cuộc đàm thoại giữa cụ Tiên Điền Nguyễn Du (1765-1820) và Tiến sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825) sống ngược lại 49 năm sau
Chợt ông Tú giựt giọng:
- Úi dào! Cách đây cả mấy trăm năm các cụ ta xưa đã "sống ngược lại 49 năm sau" viết hư cấu về cụ Tiên Điền, ông nghè họ Phạm với bà họ Hồ. Thời nay, dám cụ Ngộ Không viết hư hư thực thực về bác, tôi với bà Chúa thơ Nôm lắm ạ.
Làm như lãng tai không nghe, cụ khẽ khàng...
Bà không biết Phạm Quý Thích có tình ý với mình. Bà tâm sự với Phạm Quý Thích vì là bạn thân của Nguyễn Du khi Phạm Quý Thích đi thăm bà ở Yên Tử. Bà thổ lộ cho biết đã kết bạn tình với Nguyễn Du năm 1813, năm Nguyễn Du được Gia Long bổ làm chánh sứ sang Tầu. Bà làm bài Hầu nghi Tiên Điền nhân trong tập Lưu hương Ký có câu "Chữ tình chốc đã ba năm vẹn - Giấc mộng rồi ra nửa khắc không" là vậy.
Đợi ông Tú thông tỏ xong, cụ trở lại với "Xuân Đường đàm thoại"...
Năm Kỷ tỵ, Tự Đức thứ 22, cuối đông đã lập xuân rồi, liễu sắp phơi xanh, đào toan trổ đỏ, ngổn ngang tâm sự. Bạn tao nhân cùng nhau họp mặt thì Ngô Ban nghiêng chén đứng uống và nói: "Người tài nữ tỉnh Nghệ An, hiệu Cổ Nguyệt đường, tự Xuân Hương chết rồi. Tôi và một vài người nhà đã chôn cất nàng. Chúng tôi mai táng nàng ở cạnh núi Nguyệt Hằng, phủ Từ Sơn, huyện Đức Giang (thuộc Bắc Ninh cũ)...".
Như có chuyện gì suy nghĩ lung lắm, ông Tú mặt mũi héo don:
- Có chuyện này tôi nghĩ không ra với chuyện dựa vào Tùng Thiện Vương theo Thiệu Trị ra Bắc: Mộ bà Hồ Xuân Hương ở Tây Hồ. Nay qua Xuân Đường đàm thoại: Mộ bà ở núi Nguyệt Hằng, Bắc Ninh nên tôi chịu chết chả hiểu gì sất.
Cụ Cử cơm niêu nước lọ:
- Nói cho ngay tôi nào hơn gì bác. Nhưng cứ theo cụ Ngộ Không trong văn khảo Nhà ta ở phường Hà Khẩu của cụ ta: Bà Hồ Xuân Hương mất và chôn cất ở chùa Giải Oan, Yên Tử. Ba năm sau được di hài về chùa Kim Liên, Nghi Tàm ở Tây Hồ.
Rít một hơi thuốc, cụ thở ra khói...theo khói bay đi:
Mà cụ Ngộ Không đây cũng nhiễu sự lắm, thời cụ ấy lại tin vào mấy nhà ngọai cảm vớ vẩn. Số là Mộ phần bà nằm trong khu nghĩa địa Đồng Táo trước chùa Kim Liên. Trong nghĩa địa này có miếu thờ bà Hồ Xuân Hương. Ngày nay toàn khu nghĩa địa đã chìm trong lòng nước Hồ Tây. Gần đây nhờ nhà ngoại cảm NTN vẽ chuyện: mộ bà nằm ở dưới đáy hồ. Từ miếu cũ xuôi về phía tây 1.480m.
Cụ Cử trở lại chuyện Nguyễn Du, Phạm Quý Thích làm bài phúng bà họ Hồ...
Trong buổi họp mặt vì xúc cảnh sinh tình, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích mỗi người làm một bài phúng Hồ Xuân Hương và luận bàn về chữ tình, tài, mệnh, giai nhân. Cả hai đều là người tình của bà, cả hai đều coi bà là một kỹ nữ "Nam quốc Thúy Kiều ". Qua Xuân Đường đàm thoại, Trần Bích San tiết lộ: Xuân Hương là một nữ lưu phù hoa, vẻ mặt như hoa đào, nhan sắc như nước thu. Tôi lúc trẻ đã có giao du. Nào đàn, nào cờ, nào rượu, nào thơ, có thể viết nên thiên Phong tình tân lục....
Nghe "chín" rồi, ông Tú nhẩy bổ ngang xương vào chuyện...
Dào! Cứ như cụ Ngộ Không hư cấu ấy...Ấy là về nhan sắc của bà Chúa thơ Nôm, cụ Ngô Tất Tố hư cấu truyện dã sử Trong rừng Nho cho rằng nhan sắc của bà lúc ở Thăng Long đã làm cho nhiều Nho sinh phải mê mẩn:"...cái dáng dấp yểu điệu, cái dung nhan xinh đẹp của Xuân Hương lại làm cho lòng chàng nóng như lửa chất..."
Cụ lại làm như điếc đặc, cụ hấm húi chuyện phong tình cổ lục...
Thời buổi rày phong tình, đa tình không hẳn là dâm dật, nhưng nằm trong cái túi càn khôn của các cụ ta xưa thì tham thì thâm, đa dâm cũng chết. Ngay cả có người chê trách Đọan trường tân thanh, nhưng vẫn bênh vực nàng Kiều qua câu rày thì đù mẹ cái hồng nhan (Nguyễn Công Trứ)chẳng hạn. Thảng như bài Đánh cờ mà người ta quàng vào cổ bà với những câu thơ dung tục.
Bài "Đánh cờ" chả phải của bà, đúng ra gốc tích từ tích trai gái chơi cờ tướng ở bên Tàu: Phùng Mộng Long đời Minh ghi lại bài dân ca Tô Châu như sau: "Thu liễu vi kỳ trước tượng kỳ - Thạch pháo đương đầu tu phòng lưỡng hiệp xa - Ngã chỉ đạo nhĩ song mã ẩm tuyển xoa khởi liễu cá dương giác sĩ - Dạng đạo nhĩ nhất tốt chiếm tâm giáo ngã nan động di". Nôm là Xếp bàn cờ vây bày bàn cờ tướng, Thấy pháo đầu phải đề phòng xe thọc hai bên, Em chỉ nghĩ anh cho hai ngựa uống nước nên cho sĩ vểnh sừng dê, Ngờ đâu một con tốt của anh vào cung khiến em không động đậy gì được. Từ tích này, bà mang cái vạ chữ nghĩa "trước tác" những câu: "Thoạt mới vào chàng liền nhẩy ngựa" (...), "Đem tốt đầu dú dí vô cung", này kia, kia nọ.
Cụ không khảy thêm...Thêm chuyện vì nhân gian hay sùng phụng dâm từ nên Minh Mạng sai quan bộ Lễ Hòang Công Lý răn đe: cung nhân luân, chính tâm thuật, giới dâm tắc, thận pháp thù. Vậy cớ sự gì ngự sử văn đàn nào đó thời ấy bỏ qua những bài Ông Cử Võ, hay Vịnh nữ vô âm. Vì Ông Cử Võ chỉ là sự mô tả quá quắt: cái đó của người nam. Vịnh nữ vô âm nhếch nhác gợi dục cái đó của người nữ.
Đến đây, vẫn cái tật đánh chết cũng không chừa của ông Tú là khoe chữ:
- Ấy là cũng có ngự sử văn đàn nào đấy nát bàn vì bà là người xứ đàng trong với sơn bất cao, thuỷ bât thâm, nam đa trá, nữ đa dâm nên mới thành chuyện.
Cụ Cử lắc đầu và khẽ khọt:
- Chuyện đó ở bên...Tàu gốc gác điển hay tích lạ từ Tào Tháo đời Tam Quốc trong Đoản ca hành có câu: sơn bất yếm cao, thủy bất yếm thâm. Bởi bác rối chuyện nên tôi cũng rỗi hơi với bác: Bà là người xứ Nghệ thì thiếu gì...núi cao, sông sâu. Nên Tam nguyên Trần Bích San cho rằng văn phi sơn thuỷ vô kỳ khí, nhân bất phong sương vị lão tài,Nôm là không có "núi" và "nước," văn không có khí lạ, không trải qua sương gió, người chưa có khả năng già dặn. Ấy là bà họ Hồ, thưa bác.
Trong khi ông Tú mặt nghệt ra vì nho chùm, nho táo, cụ Cử vẫn không tha:
- Như bài Thiếu nữ ngủ ngày của bà có câu "Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt – Đi thì cũng dở, ở không xong". Ai đấy lộn tùng phèo với bài Ngủ quên với sáng trăng em tưởng tối trời, em ngồi em để cái sự đời em ra vay mượn trong Vân đài loại ngữ của cụ Lê Quý Đôn, bài Diệp đa: minh nguyệt muội tưởng hắc dạ, muội tọa muội khỏa thế sự xuất, thế sự như diệp đa, hắc tựa khẩu khuyển trảm phụ thế sự.
Thế là thân già vác dùi nặng, tôi lại mò mẫm với cổ thư để tìm kiếm chỉ bắt gặp bài Đánh đu của bà mà người ta cho là bà phỏng theo bài cây đu trong Hồng Đức quốc âm thi tập với câu kết chơi xuân hết tấc xuân dường ấy, nhổ cột đem về để lỗ không.Vì vậy tôi đào sâu chôn chặt chuyện mới tám, chín tuổi, bà ngã lăn đùng để có khẩu khí rất nam tử "Đo xem đất vắn dài". Hoặc bỡn cợt với Chiêu Hổ "Mặc áo giáp dải cài chữ đinh". Vì vậy câu phàm tục đối đáp rày thì đù mẹ cái hông nhan là thêu dệt bởi câu ấy chả phải của Phạm Đình Hổ mà là của...cụ Nguyễn Công Trứ.
Vẫn chưa xong: Bài Chùa Quán Sứ, câu "Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo" bị đổi là thương ôi sư cụ hóa ra mèo. Năm 1936, ông Nguyễn Văn Hanh viết trong cuốn Hồ Xuân Hương: Tác phẩm, thân thế và văn tài thì bài Sư và mấy ả lên đồng của Trần Tế Xương: một thằng trọc tếch ngồi khua mõ, hai ả tròn xoe đứng ngó bông bị ông gán cho bà và đổi là: "Một sư đầu trọc ngồi khua mõ - Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am".
Theo tôi bà đi chơi chùa Trấn Quốc với cụ Nguyễn Du, chùa Một Cột với Mai Xuân Phủ, chùa Đồ Sơn với Trần Phúc Hiển. Hàng ngày bà tham thiền nhập định, khi chồng mất bà vào chùa Giải Oan tu. Bà mất được nhang đèn hương khói ở chùa Kim Liên. Thế nên, nếu bà có làm thơ về chùa chiền không ngoài bài Mắng bọn dốt để răn đe: "Ai về nhắn bảo phường lòi tói - Muốn sống đem vôi quyết trả đền" vậy thôi.
Tôi xin thưa với bác là Tốn Phong cũng trong bài tựa tập Lưu Hương ký viết: "Bà là người học rộng, thuần thục và tài sắc. Bà tinh thông Nho giáo, Lão giáo và nhất là Phật giáo. Bà có kiến thức khá rộng và uyên bác". Ấy là chưa tính tới ông thi sĩ đa tình Tốn Phong làm thơ ca tụng vẻ đẹp của bà trong thi tập của mình hết nét thanh xuân ấy nghìn vàng khó mua đến mười phần xuân sắc tới trời Nam.
Gia dĩ có chuyện ôm rơm rặm bụng đã lâu, ông Tú hỏi cho ra nhẽ:
- Này bác, thằng Phán nhà tôi nhặt nhạnh trong Giai nhân di mặc từ thế kỷ 19 của cụ Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến viết một "biên niên tác", qua đó cụ vẽ lên dung nhan bà chúa thơ Nôm: Bà là người tầm thước, mặt rỗ hoa mè, nước da ngăm ngăm đen, vì chả có ai dòm ngó đến bà nên bà có ẩn ức dồn nén này nọ, tôi chả hiểu gì sốt cả.
Cụ Cử nhìn mông lung ra cổng như chờ đợi ai, rồi quay lại và thở ra:
- Giờ ạ, chán cụ Đông Châu thật, đúng là cụ mắc chứng giời bò sao ấy. Nói cho cùng tôi không biết cụ ấy thông thiên bác cổ thế nào để dựa vào kinh điển mà trích thuật như vậy. Cứ dựa vào Dương Tri Tạn, một danh sĩ trong làng, khi bà 15, 16 tuổi, bà hồn nhiên dễ thương. Dương Tri Tạn đã làm bài thơ Cái điếu bát để tả dung nhan bà eo lưng thắt đáy thật xinh xinh, điếu ai hơn nữa điếu cô mình.
Vít cái ống điếu trúc cong vòng, cụ rít một hơi dài kêu "eng éc... eng éc..." như lợn kêu, cụ làm một cữ cho đã điếu đâu vào đấy rôi...Với tay lấy cái quạt đập con ruồi đậu trên mép mình, và ngẫn ngẫn:
- Bác Tú ạ, tâm viên ý mã với bà Hồ Xuân Hương, nếu tôi có bạo gan lộng thiên hí địa xin bác cũng châm chước cho. Vả lại, ở cái thời buổi chẻ hoe trắng phớ này, chỉ có bác và tôi đem chuyện chổi cùn rế rách ra nói trộm sau lưng các cụ ấy thôi...
Rít một hơi thuốc lào nữa, cụ quay đầu về khỏen vườn lừ đừ nhả khói, vừa lúc ở ngòai cổng, cô con cắp rổ đi chợ về. Cụ bâng quơ:
- Để tôi bảo cháu làm tiết canh vịt để bác và tôi đánh chén với rượu làng Vân nhá.
Và cụ bâng khuâng:
Tôi trộm nghĩ anh Phán nhà bác vác súng di săn vịt giời như cụ Nguyễn Du cũng chán chê rồi. Ừ thì nhân tiện hôm nảo hôm nào ngày lành tháng tốt, xin bác cơi trầu khay thuốc cho anh Phán nhà bác với cô con gái rượu nhà tôi.
Khi không cụ thở ra như tiếng thở dài: Không khéo để lâu quá, đá nát nung vôi lại nồng, lại tai bay vạ gió như...bà Hồ Xuân Hương thì cũng quá khổ, thưa bác.
***
Đợi cụ bạn già khuất đằng cuối ngõ. Cụ Cử lững thững đi vào, trong cái nắng chênh chếch chiều tàn nhạt sương gieo, cụ quên tiệt chuyện ba đồng một mớ trầu cay. Cụ chỉ nhớ đến những thơ của bà vẫn còn đấy, có đấy...Với người đọc, bà vẫn Đánh đu tung hê hồ thỉ bốn phương trời. Với người viết về bà, bà vẫn là con Ốc nhồi nặng nợ eo sèo nhân thế.
Cầm cái quạt đập con ruồi trên cái chén tống, nó vụt bay mất. Hóng mắt theo con ruồi, chợt mắt cụ Cử Nghi Tàm đậu trên bu cửa, cái ô của cụ Tú Quảng Bá còn dựng ở đấy. Nhìn hai cái chén quân còn nguyên, tuần trà vẫn còn dang dở. Khi không trời đất chuyển nắng rám mùi dâu, lất phất giọt ba tiêu râm rả trên tầu lá chuối.
Mắt cụ lại bò lên cái ô đen...
.
Trúc gia trang
Đinh Hợi 2007
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
(chỉnh sửa 2014, 2016, 2020)
Nguồn: Trịnh Văn Thanh, Thế Uyên, Trần Ngọc Vượng, Nguyễn Tử Quang
Tạ Quang Khôi, Nguyễn Quý Đại, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Hưng Quốc.
Phụ đính
Phần lớn các sách in chữ nôm, hay bản khắc của các hiệu buôn sách phường Hàng Gai, Hà Nội. Hoặc tại các hiệu buôn tại Nam Định, Hải Phòng trước năm 1930, nhiều sách không ghi tên tác giả, ngay cả Truyện Kiều. Tại Thư Viện Quốc Gia Pháp tại Paris, Trường Viễn Đông Bác Cổ, và tại Viện Hán Nôm Hà Nội có rất nhiều văn bản: chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ, truyện Nôm.. không đề tên tác giả.
Vì cho đến đầu thế kỷ 20 các tay lái buôn sách như Lễ Môn Đường, Quảng Thành thấy sách nào bán chạy, bỏ tiền ra mướn thợ khắc bản gỗ chữ nôm lẫn chữ quốc ngữ, hay sắp chữ typo quốc ngữ như nhà Xuân Lan của Nguyễn Ngọc Xuân đầu thế kỷ 20, họ in bán, không cần biết tác giả là ai, chẳng biên khảo, chú thích gì. Nằm trong trường hợp này, bản in thơ Hồ Xuân Hương, phần trên khắc bản gỗ chữ nôm, phần dưới khắc gỗ chữ quốc ngữ, không có tên tác giả.
Những bài thơ Nôm đầu tiên được coi là của Hồ Xuân Hương, xuất bản ở Hải Phòng, năm 1913, với tài liệu không chính thức. Bốn năm sau, năm 1917, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến xuất bản Giai nhân di mặc, toàn những chuyện hư cấu trong đó có chuyện Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương dĩ nhiên cũng "hư cấu". Sau đó nhiều nhà làm văn học dựa vào đó soạn ra Thân thế và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương và đánh giá thơ văn của bà, như một tác giả chính thức và có mặt thực sự trong đời sống xã hội. Thấy bán được, các nhà xuất bản tiếp theo in thơ Hồ Xuân Hương như một tác giả "có thật" và số bài mỗi lần in một tăng lên, cuối cùng đến hàng trăm bài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét