ÔNG ĐỒ
Vũ Đình Liên
Mỗi
năm hoa đào nở
Lại
thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
"Chỉ bằng một bài thơ nhỏ 25
câu, 100 chữ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã ghi lại được một hình ảnh đã qua đi cùng lịch sử, để nó có
thể vĩnh viễn tồn tại trong tâm tưởng nhiều thế hệ bạn đọc. Và đó chính là sức
mạnh kỳ lạ đến ma quái của thơ ca, của văn chương... ”
Thực thế, bài thơ nhẹ nhàng mà mỗi lần đọc lên đều lắng đọng trong lòng người
đọc như nỗi niềm tác giả : có cái gì lâng lâng như một tiếng thở dài, rưng rức
một nỗi ngậm ngùi.
Lá vàng, mưa bụi. Tất cả
đều trĩu nặng những ưu tư, xót xa, nuối tiếc
Mỗi
dịp Tết, trước thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ đang tàn và năm
mới sắp đến người Việt xưa thường “xin chữ” viết trên giấy hồng điều, dán trước
cửa để gửi gắm những mong ước, khát vọng của gia đình mình trong năm mới.
Chữ đó là chữ Nho,
thứ chữ tượng hình rất giàu ý nghĩa. Người có hoa tay, có thể viết mà tưởng như
đang vẽ tranh.
Đầu thế kỷ XX, trên các
đường phố Hà Nội thường có những cụ đồ cặm cụi vẽ từng nét chữ trên giấy điều
để bán cho dân Hà Thành vào những ngày trước Tết. Hình ảnh ông đồ già
trong chiếc áo the, khăn xếp và guốc mộc cũ kỹ từ đó đã in sâu vào tâm trí
và trở thành biểu tượng cho những mùa xuân cổ điển. Vũ Đình Liên đã
nắm bắt hình ảnh nên thơ ấy và viết nên bức tranh thơ sinh động:
Trên một góc phố, dưới cánh hoa đào đang phơ phất trong gió xuân vẫn còn se lạnh, có một ông đồ với mái tóc bạc phơ đang bày mực đen và giấy đỏ. Rồi khi khách đến mua, người xem kinh ngạc nhìn thấy ông thầy đồ đang hoá thân thành một nghệ nhân đang vung bút. Tiếng trầm trồ thán phục. Trên giấy đỏ hiện lên những con chữ mà không hẳn là chữ, vì đó là một bức hoạ thần kỳ, đường nét như phượng múa rồng bay.
Trên một góc phố, dưới cánh hoa đào đang phơ phất trong gió xuân vẫn còn se lạnh, có một ông đồ với mái tóc bạc phơ đang bày mực đen và giấy đỏ. Rồi khi khách đến mua, người xem kinh ngạc nhìn thấy ông thầy đồ đang hoá thân thành một nghệ nhân đang vung bút. Tiếng trầm trồ thán phục. Trên giấy đỏ hiện lên những con chữ mà không hẳn là chữ, vì đó là một bức hoạ thần kỳ, đường nét như phượng múa rồng bay.
Nhưng ông đồ đang trải lên
giấy chữ nghĩa của thánh hiền, hay đang trải lòng mình nỗi ngậm ngùi của kẻ sĩ
đang nhìn thời cuộc đổi thay?
Câu
hỏi ấy nhắc chúng ta nhớ lại thời kỳ đất nước Việt Nam trải qua những cơn biến
động, xã hội đảo lộn, và hệ quả có liên quan đến số phận của ông: sự tàn tạ của
nền nho học. Khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn đã khép, làm tiêu tan giấc
mộng vinh quy của các đệ tử cửa Khổng sân Trình. Biến động ấy dẫn đến sự thất
thế của một lớp người mà có thời chúng ta coi như biểu tượng của văn hoá truyền
thống.
Người
người đổ xô đi học tiếng Tây. Ông đồ cũng đành từ giã mái trường, từ giã những
buổi bình văn, để chấp nhận cách mưu sinh buồn tủi là ngồi viết thuê dăm ba câu
đối. Xưa nay ông quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền và việc học không phải
để kiếm sống mà là để làm người quân tử, để phò vua, giữ nước ... thế nhưng
trong thời buổi suy tàn, ông phải đi bán chữ. Chữ nghĩa cao quý ngày nào giờ trở
thành một món hàng đem ra chưng trên vỉa hè đường phố … làm sao lòng ông không
khỏi xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời.
Trong nỗi xót xa của người
buộc phải làm điều bất đắc dĩ, những tấm tắc ngợi khen của khách qua đường âu
cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của kẻ sinh bất phùng thời.
Nhưng rồi chút an ủi nhỏ
nhoi ấy cũng không còn. Ông đồ cảm nhận số khách hàng mỗi năm mỗi vắng. Không
còn ai cần, không còn ai hay là ông vẫn ngồi đấy cô đơn, lạc lõng
giữa vệ đường. Màu sắc cũng phôi pha. Giấy cũng không còn thắm, bẻn lẽn nằm bên
đĩa mực đã khô với những xác lá vàng.
Hình bóng lẻ loi, cô độc
của ông đồ giống như một nỗ lực cuối cùng, đang cô đơn chống chọi trong vô
vọng... cố níu giữ một thời vàng son trên nét bút giữa dòng đời hối hả. “Lá
vàng rơi trên giấy” gợi trong lòng khách yêu thơ một không gian thấm đượm nỗi
buồn, đang quấn lấy số phận hẩm hiu của ông đồ trước khi tàn tạ. Tiếng gõ nhịp
thời gian càng khắc khoải với câu hỏi :“Người thuê viết nay đâu?” Hờ hững rồi
lãng quên. Xung quanh ông chỉ là khoảng trống...
Xuôi
dòng thời gian, mọi thứ lui vào dĩ vãng và để lại cho chúng ta bao nỗi niềm
tiếc nuối. Trong số đó có hình ảnh ông đồ một thời vang bóng. Và bài thơ của Vũ
Đình Liên là một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp
tàn, man mác nỗi lòng hoài cổ.
Mỗi độ xuân sang, đọc
lại bài thơ, chúng ta không khỏi cảm thấy như trước mắt mình vẫn còn có
bàn tay của ông đồ đang phóng bút. Cánh tay ông đưa đẩy, cổ tay ông
cầm chiếc bút lông uốn lượn, rồi từng nét chữ còn tươi màu
mực dần dần hiện ra mềm mại như “rồng, phượng” trên tờ giấy hồng điều đỏ thắm.
Dường như trong phút xuất thần ấy ông đồ đang bặm môi, gửi gắm tất cả lý tưởng
và khát vọng của mình lên từng nét chữ và nỗi niềm đã và đang làm con chữ sống
dậy. Bài thơ của Vũ
Đình Liên như muốn níu kéo thời gian lùi lại, đưa chúng ta trở về không
gian cổ, để cùng tưởng nhớ thời vàng son của những đệ tử “cửa Khổng sân
Trình”.
Và dưới đây là
bản dịch sang tiếng Pháp của chính
tác giả Vũ Đình Liên cùng với Mireille Gansel.
Le vieux lettré calligraphe.
Chaque année s’ouvre la fleur du pêcher
On retrouve le vieux lettré
encre de chine, papier pourpre étalés
Sur un trottoir parmi tant de passants
Nombreux ils demandent une calligraphie
Puis prodigues des louanges s’extasient :
« Quel tour de main pour tracer ainsi des traits
Beaux comme un vol de dragon, une danse de phénix ! »
Mais chaque année, on compte les absents
Où sont-ils ceux qui demandent une calligraphie
Le papier triste perd son éclat
L’encre sèche dans l’écritoire mélancolique ….
Le vieux lettré est toujours assis là
Ils passent leur chemin – nul ne le voit
Sur le papier tombe la feuille jaune
Dans l’air vole la fine brume
Cette année elle s’ouvre de nouveau la fleur de pêcher
On ne retrouve plus le vieux lettré
Les hommes du temps passé
Où s’en sont-ils allés ?
Chaque année s’ouvre la fleur du pêcher
On retrouve le vieux lettré
encre de chine, papier pourpre étalés
Sur un trottoir parmi tant de passants
Nombreux ils demandent une calligraphie
Puis prodigues des louanges s’extasient :
« Quel tour de main pour tracer ainsi des traits
Beaux comme un vol de dragon, une danse de phénix ! »
Mais chaque année, on compte les absents
Où sont-ils ceux qui demandent une calligraphie
Le papier triste perd son éclat
L’encre sèche dans l’écritoire mélancolique ….
Le vieux lettré est toujours assis là
Ils passent leur chemin – nul ne le voit
Sur le papier tombe la feuille jaune
Dans l’air vole la fine brume
Cette année elle s’ouvre de nouveau la fleur de pêcher
On ne retrouve plus le vieux lettré
Les hommes du temps passé
Où s’en sont-ils allés ?
Và bản
dịch sang tiếng Anh của Dr. Chat V. Dang :
The Sino-Vietnamese Teacher
The Sino-Vietnamese Teacher
Each year, when peach
flowers blossom,
We see again the old
teacher
Display black ink and
crimson paper
On the sidewalk busy
with passers-by.
Many people hire him
to write,
Praising in wonder his
talent:
"His dexterous
hand draws like
Dancing phoenix,
flying dragon."
But each year, clients
become rarer.
Where are you now
calligraphy users?
Untouched red paper
deep in sadness,
Unstirred ink gloomy
inside the jar.
The teacher is still
sitting there,
Pedestrians are
unaware.
A yellow leaf falls on
the paper
As dusty rain flies in
the air.
This year, peach trees
bloom again
Ancient teacher is not
seen.
People from millennia
past
Where are your souls
now?
Nhà thơ Lê Mộng Thắng giới thiệu
Thêm một bản dịch sang tiếng Hoa
LÃO
TÚ TÀI
Niên niên đào hoa khai
Tổng kiến lão tú tài
Truy nghiễn hồng tiên bãi
Thông cù nhân vãng lai
Đa thiểu thị tự giả
Trách trách tiễn châu ky
Xảo bút nhất huy tựu
Long vũ nhi phụng phi
Lãnh lạc niên phục niên
Cố khách hà mang nhiên
Hồng tiên bi sắc thấn
Truy nghiễn sầu mặc kiên
Tú tài do tại ti
Lộ quá hữu thùy tri
Tiên thượng hoàng diệp lạc
Thiên biên tế vũ phi
Kim niên đào hựu tân
Bất kiến cựu thời nhân
Thương nhiên không trướng vọng
Yên tai vạn cổ hồn.
老 秀 才
年 年 桃 花 開
總 見 老 秀 才
追 硯 紅 箋 擺
通 衢 人 往 來
多 少 恃字者
嘖嘖 羨 珠 機
巧 筆 壹 揮 就
龍 舞 而 鳳 飛
冷 落 年 復 年
僱 客 何 茫 然
紅 箋 悲 色 矧
追 跰 愁 墨 堅
秀 才猶 在斯
路 過 有 誰 知
箋 上 黄 葉 落
天 邊 細 雨 飛
今 年 桃 又新
不 見 舊 時 人
傷然 空 悵惘
煙 災萬 古 魂
年 年 桃 花 開
總 見 老 秀 才
追 硯 紅 箋 擺
通 衢 人 往 來
多 少 恃字者
嘖嘖 羨 珠 機
巧 筆 壹 揮 就
龍 舞 而 鳳 飛
冷 落 年 復 年
僱 客 何 茫 然
紅 箋 悲 色 矧
追 跰 愁 墨 堅
秀 才猶 在斯
路 過 有 誰 知
箋 上 黄 葉 落
天 邊 細 雨 飛
今 年 桃 又新
不 見 舊 時 人
傷然 空 悵惘
煙 災萬 古 魂
-------------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn
internet : Trương Văn Dân và Tập
san Quán văn số
12 ( 1-2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét