
“Mười giờ tàu lại Bến Thành.
Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao”
Tản mạn về một người thầy
Bài thơ tứ tuyệt này thường đưa ra bàn bạc, phân tích, phản biện... những khi "trà dư tửu hậu" của các thầy thuốc Đông y có nội dung được xem như một phương châm, nguyên tắc phòng chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe của quý ông ở độ tuổi trung niên trở lên.
Đó là
bài thơ “Ngũ ngôn tứ tuyệt” có gốc chữ Hán như sau:
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh nhất trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia
Bài thơ có những dị bản
khác nhau ở câu 3 như: “Nhất nhật dâm nhất độ”, “Thất nhật dâm nhất độ”, “Bán
nguyệt dâm nhất độ”... Có người cho rằng bài thơ có nguồn gốc dân gian, ngẫu hứng,
được truyền khẩu và thêm thắt, thay đổi nhiều ý khác nhau. Ý nghĩa ngắn gọn của
bài thơ là:
Nửa
đêm uống 3 chung rượu nhỏ,
Sáng sớm uống một tách trà,
Một
tháng ái ân một lần,
Thầy thuốc không đến nhà.
·
Ý câu thứ nhất là nửa đêm thức dậy uống 3 chung rượu sẽ làm cho
khí huyết lưu thông, điều hòa tạng phủ, phòng ngừa bệnh tật. Tuy nhiên, ý bàn ở
đây là nửa đêm dậy để uống rượu có phải là một sinh hoạt bình thường không? Rượu
cất bằng chất liệu gì? Ly uống rượu dung tích bao nhiêu? Hiệu ứng đối với cơ thể
mỗi người ra sao? Mùi rượu có gây khó chịu cho người khác trong nhà không?…
Không đơn giản tý nào! Nửa đêm dậy uống rượu có lẽ chỉ có người nghiện rượu,
khó ngủ mới uống được kiểu đó, người bình thường không thể làm được vì sẽ rối
loạn giấc ngủ, ảnh hưởng đến giấc ngủ của người trong nhà, người nằm chung,...
nếu uống thường xuyên, liên tục chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện rượu, thậm chí còn
có thể dẫn đến mất hạnh phúc vợ chồng. Về chất lượng rượu thường dựa theo chuẩn
là gạo nấu ủ men cất lấy rượu, tuy nhiên cũng không phải chất lượng như nhau,
còn tùy thuộc chất lượng gạo, nguồn gốc sản xuất, chất lượng men, nhiều cách ủ
nấu khác nhau sẽ cho ra rượu có nồng độ, chất lượng, ngon dở, lợi hại,... khác
nhau. Về dung tích ly (chung) dùng uống rượu cũng có nhiều cỡ loại, tùy theo tửu
lượng của người uống mà có tác dụng, hiệu ứng khác nhau. Như vậy, ý nghĩa nửa đêm dậy uống rượu
chẳng qua là nói cho vui, nói ước lệ để có cớ cho người đàn ông có quyền uống
rượu bất cứ lúc nào, tùy theo ý thích, không ai được cấm cản. Lập luận cho ý đó
có những câu như “Nam vô tửu như kỳ vô phong”, “Một trà, một rượu, một đàn
bà…”.
·
Ý câu thứ ba, khoản “ái ân” có ý nêu ra một tháng một lần, nửa
tháng một lần, một tuần một lần hoặc một ngày một lần,... không phải đơn giản
khi phân tích, luận bàn cho hợp lý. Nếu người có sức khỏe tốt mà một tháng chỉ
có một lần thì không thể đáp ứng đủ nhu cầu. Còn như nửa tháng một lần ở độ tuổi
60-70, sức khỏe bình thường là hợp lý, nhưng tuổi thanh niên trai tráng khỏe mạnh
thì chưa hợp lý. Có lẽ câu “Thất nhật dâm nhất độ” là vừa phải, hợp lý với lứa
tuổi thanh niên, trung niên, người có sức khỏe bình thường. Nhưng cũng tùy, có
người có thể tạng, sức khỏe, di truyền, nhu cầu đặc biệt về tình dục “Nhất nhật
dâm nhất độ” diễn ra bình thường, thậm chí “vào ba, ra bảy” mà giới thầy thuốc
biết được trong số bệnh nhân, qua đồn đại, "trà dư tửu hậu",...
Trong đời sống hàng ngày nếu
mọi người thực hiện được cách mức điều độ về trà, rượu, tình dục, các sinh hoạt
khác thì sức khỏe sẽ ổn định, bình thường, “Lương y bất đáo gia” - Thầy thuốc
không đến nhà... để khám chữa vì sinh bệnh do cách sống không hợp lý.
Như vậy, bài thơ trên có giá trị như thế nào cho cách sống của
chúng ta không? Khó mà kết luận được, “chín người - mười ý”, người cho là đúng-
có lý, kẻ bảo là sai - vô lý,... đúng là khó thật. Thời xưa, dưới chế độ xã hội
“Nam trọng, nữ khinh”, người đàn ông là chủ, toàn quyền trong gia đình, muốn
làm gì thì làm, gia trưởng, quan liêu, độc đoán, ... mọi người trong nhà phải
tuân thủ, hầu hạ mới có kiểu sống theo nội dung bài thơ trên. Bây giờ cũng có
thể có người sinh hoạt theo cách riêng của mình, nhưng đừng làm phiền người
khác trong nhà. Nửa đêm thức dậy lò mò lấy rượu ra uống một mình là chỉ có nghiện
rượu hoặc... tâm thần mà thôi, không một ai trong nhà tán đồng, ủng hộ, gây phiền
hà, bực mình là cái chắc. Nên dẹp bỏ cách uống rượu kiểu này.
Sáng sớm, uống một vài ly trà ngon là thói quen của nhiều người
từ xưa, uống cà phê kèm uống trà buổi sáng là thói quen của mọi người trong xã
hội bây giờ , từ nông thôn đến thành thị, khắp mọi nơi. Như vậy, việc uống trà
buổi sáng là bình thường, chỉ có uống trà ngon dở, đậm nhạt, nhiều ít, lâu
mau,... một mình hay có bạn trà - cà phê?
Việc còn lại là sinh hoạt tình dục, tùy sức khỏe, bản năng, điều
kiện, nhu cầu của từng người, không thể quy ước một lịch sinh hoạt chung cho tất
cả mọi người, cho nên ý nghĩa câu thơ này có giới hạn nhất định, không thể áp dụng
chung được.
Tóm lại, bài thơ trên chỉ mang tính ước lệ, có thể phù hợp với
con người nhất định và hoàn cảnh xã hội thời xưa, với xã hội bây giờ không thể
áp dụng được, chẳng qua khi có dịp ngồi với bạn bè thân hữu, đồng môn, đồng
nghiệp,... nói phiếm với nhau cho vui mà thôi! Xin lạm bàn vậy.
Lê Vân
Tản
mạn vui vui cuối tuần
****
Người miền Nam coi việc làm món thịt kho tàu trong dịp Tết Nguyên Đán là truyền thống lâu đời. Với họ, trong những ngày Tết không thể thiếu có món ăn này trong mâm cỗ thắp hương hoặc mâm cơm đãi khách.
Nhưng một lần làm du khách
phiêu lãng cảnh đẹp sông nước miền Tây ,tôi được nghe kể về một câu ca dao miền
Nam rất thú vị liên quan đến món thịt kho tàu :
Giữa trưa đói bụng thèm cơm
Thấy đùi em vợ như tôm kho tàu
Tại sao ra cớ sự mà đùi em
vợ “ngon” như tôm kho tàu? Nói theo ngôn ngữ nhà thiền thì tại sao có cái công
án đó? Thiệt chẳng chút nào “chánh niệm”khi ví von như thế ! Để cho “có lang có
lớp” ,chúng ta phải bắt đầu từ món thịt “kho tàu”.
Kho tàu thực ra chẳng liên
quan gì đến người Tàu. Nhiều tác giả ẩm thực đi xa quá còn giải thích món thịt
heo kho tàu là truyền thừa từ món thịt kho Tô Đông Pha.Tô Đông Pha không chỉ là
một thi hào triều Tống mà theo nhà văn nữ người Anh Fuchsia Dunlop chuyên về
“ẩm thực Trung Hoa” thì Tô Đông Pha,
cũng có thể coi như dân giang hồ có số má trong làng ẩm thực. Truyền thuyết đó nói
rằng chính Tô Đông Pha sáng chế ra món “thịt heo kho Đông Pha” (nhưng đến giờ
vẫn không thấy bằng chứng nào được trưng ra) .
Truyền thuyết kể: Thời ông lưu
đày ở con dốc phía Đông, gọi riết thành tên “Đông Pha”, xứ Hoàng Châu, nay là
Hoàng Cương. Ông sống đời tự cung tự tiêu của một kẻ không quê mùa nổi, với
nghiệp nhà nông làm ruộng nuôi heo tự nấu ăn. Chính ở đó món thịt nổi tiếng mà
“Mao Trạch Đông rất mê” ra đời, từ một tai nạn. Lịch sử nguồn gốc bao giờ cũng
do một tai nạn?
Một hôm ông đang trong bếp nấu
thịt heo chợt có bạn tới rủ chơi cờ. Mê cờ cũng là thú của những tỉ phú thời
gian như ông. Thịt bắc trên bếp mà chủ nhà mê cờ mãi đến khi nghe mùi thịt bắt
đầu khét mới lật đật vào nhắc xuống và tình cờ món heo Đông Pha ra đời. Sau khi
được phục hồi “quan phẩm” lần thứ nhất, ông về Hàng Châu đem theo món heo kho
đỏ au nhờ màu rượu vàng Thiệu Hưng cùng với xì dầu.
Ta thấy rõ ràng đó là món thịt
kho kẹo nước cho đến lúc bị caramel hóa đến sắp cháy. Trong khi thịt heo kho
tàu ở xứ ta là thịt heo kho nước dừa lỉnh bỉnh. Đặc biệt ở miền Nam còn kho
nước dừa cho miếng thịt mềm rệu. Chữ “kho tàu” theo ông Bình Nguyên Lộc, một
nhà nghiên cứu tiếng Việt với tác phẩm nổi tiếng Lột trần Việt ngữ,
thì “tàu” ở đây là một từ cổ, nghĩa là lợ, như nước lợ sông Cái Tàu
ở Cà Mau vậy đó. Kho tàu là kho lạt. Chẳng hề “dĩ Hoa vi trung” một
tí ti ông cụ nào.
Tôm kho tàu
cũng kho na ná như thịt heo kho tàu. Món này gọi tên đầy đủ là tôm càng xanh
kho tàu. Tôm càng xanh “làm ổ” ở miệt Kiên Giang và Cà Mau một thời. Tôm kho
tàu là món không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp miền Nam. Nấu món tôm kho tàu
ngon trở thành thước đo về “công” của người phụ nữ Nam bộ.
Theo văn
liệu trong các tiểu thuyết và truyện ký của nhà văn rặt Nam bộ Hồ Trường An, hễ
có đãi đằng là có món tôm kho tàu. Ngoài giọng văn “chửi” xuất sắc, ông còn là
người viết về những món ăn miền Nam, khi thì liệt kê, khi thì mô tả cách làm,
xuyên suốt trong các tác phẩm của ông.
Có người nói tôm kho tàu là món ăn của
nhà giàu. Điều đó không hẳn đúng hoặc chỉ đúng một nửa, đúng tương đối. Những
người dân khẩn hoang vào đầu thế kỷ trước rõ ràng không thể gọi là giàu nhưng
vùng đất họ ở, con tôm càng xanh trong tự nhiên rất nhiều. Và khi có dịp đãi
khách, khi đám cưới đám giỗ, “mấy ngày Tết”, họ đều canh bắt mớ tôm càng xanh
để kho tàu. Trong ao, trong đìa, trong mương…, chỉ cần lội xuống dậm cho dậy
bùn là tôm ngoi đầu quơ râu đỏ au. Nhất là vào độ cuối năm, khi chuẩn bị xả
nước để làm đất gieo sạ lúa mùa sau. Nước rút xuống những chỗ trũng, xách rổ đi
tới những nơi ấy tha hồ bắt.
Trở lại với món tôm kho
tàu. Ngày xưa, món tôm kho tàu cũng không bị nghiễn ra nhiều thứ như bây giờ.
Có nhà chỉ ướp tôm bằng muối hột giã nhuyễn. Khi đã trộn đôi ba lần cho muối
thấm đều, họ cho mớ tôm lột vỏ vào nồi rồi đốt lửa riu riu trên bếp củi, dùng
đũa trở qua trở lại cho tôm chín đều.
Sau đó chén gạch để riêng khi lột vỏ tôm được cho vào một trả nhỏ bắc lên
bếp. Gạch tôm chín ngả màu đỏ quạch. Gạch ấy được dùng để nhúng từng con tôm
thật đều. Tôm lại được hóa kiếp một lần nữa trên bếp lửa riu. Khi gạch đã bám
chắc lên tôm, người ta cho một ít nước dừa vào kho cho cạn bớt nước, hương thơm
ngát tỏa khắp gian bếp.
Ẩm thực không có chuyện
“Trúc xinh trúc mọc bờ ao, em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh”. Tôm kho tàu phải
ăn với gạo thơm. Gạo thơm ăn cơm nguội vẫn còn thoảng hương. Chớ không như gạo
thơm biến đổi gien từ lúa ngắn ngày bây giờ! Nhưng tại sao lại có chuyện giữa
trưa đói bụng đi kiếm cơm, dù là cơm nguội, mà lại thấy… đùi em vợ? Lại còn như
tôm kho tàu buộc phải nuốt nước miếng ừng ực?
Hồi còn đi học môn tâm lý học, thuở hai phái còn rạch ròi giới tính, chưa có mấy Lesbian, Gay,Bisexual như ngày nay.Thầy Võ Doãn Nhẫn giải thích: “Phần đông phụ nữ mắc bệnh trưng dâm (exhitionism) , còn đàn ông mắc bệnh thị dâm . Nên cái đùi em vợ phải được tận tình phô phang trên cái võng trước khi đến chỗ để cơm”. Và, cái “đùi em vợ như tôm kho tàu” là dạng “điều kiện hóa” Pavlov. Cái đùi ấy giống như tiếng chuông của Pavlov, còn tôm kho tàu lâu lâu mới có ăn nên nước miếng tha hồ xôn xao.
Nguồn tham khảo:
·
SàiGonnhonews .com
·
thebethkitchen.com