28 thg 1, 2017

BÀI THƠ ÔNG ĐỒ và VŨ ĐÌNH LIÊN

                         
                
 


                                               ÔNG ĐỒ     
                                                                    Vũ Đình Liên 
                                 
                                    Mỗi năm hoa đào nở 
                                    Lại thấy ông đồ già
                                    Bày mực tàu giấy đỏ
                                    Bên phố đông người qua.

                                                Bao nhiêu người thuê viết
                                               Tấm tắc ngợi khen tài
                                               “Hoa tay thảo những nét
                                                Như phượng múa rồng bay”.

                                    Nhưng mỗi năm mỗi vắng
                                    Người thuê viết nay đâu?
                                    Giấy đỏ buồn không thắm;
                                    Mực đọng trong nghiên sầu...

                                             Ông đồ vẫn ngồi đấy,
                                             Qua đường không ai hay.
                                             Lá vàng rơi trên giấy;
                                            Ngoài giời mưa bụi bay.

                                   Năm nay đào lại nở,
                                   Không thấy ông đồ xưa.
                                   Những người muôn năm cũ
                                   Hồn ở đâu bây giờ ?

"Chỉ bằng một bài thơ nhỏ 25 câu, 100 chữ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã ghi lại được một hình ảnh đã qua đi cùng lịch sử, để nó có thể vĩnh viễn tồn tại trong tâm tưởng nhiều thế hệ bạn đọc. Và đó chính là sức mạnh kỳ lạ đến ma quái của thơ ca, của văn chương... ”
                                                                    (  Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhận xét )

Thực thế, bài thơ nhẹ nhàng mà mỗi lần đọc lên đều lắng đọng trong lòng người đọc như nỗi niềm tác giả : có cái gì lâng lâng như một tiếng thở dài, rưng rức một nỗi ngậm ngùi.
Lá vàng, mưa bụi. Tất cả đều trĩu nặng những ưu tư, xót xa, nuối tiếc
         Mỗi dịp Tết, trước thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ đang tàn và năm mới sắp đến người Việt xưa thường “xin chữ” viết trên giấy hồng điều, dán trước cửa để gửi gắm những mong ước, khát vọng của gia đình mình trong năm mới.
 Chữ đó là chữ Nho, thứ chữ tượng hình rất giàu ý nghĩa. Người có hoa tay, có thể viết mà tưởng như đang vẽ tranh.
Đầu thế kỷ XX, trên các đường phố Hà Nội thường có những cụ đồ cặm cụi vẽ từng nét chữ trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành vào những ngày trước Tết. Hình ảnh ông đồ già trong chiếc áo the, khăn xếp và guốc mộc cũ kỹ từ đó đã in sâu vào tâm trí và trở thành biểu tượng cho những mùa xuân cổ điển. Vũ Đình Liên đã nắm bắt hình ảnh nên thơ ấy và viết nên bức tranh thơ sinh động:
             Trên một góc phố, dưới cánh hoa đào đang phơ phất trong gió xuân vẫn còn se lạnh, có một ông đồ với mái tóc bạc phơ đang bày mực đen và giấy đỏ. Rồi khi khách đến mua, người xem kinh ngạc nhìn thấy ông thầy đồ đang hoá thân thành một nghệ nhân đang vung bút. Tiếng trầm trồ thán phục. Trên giấy đỏ hiện lên những con chữ mà không hẳn là chữ, vì đó là một bức hoạ thần kỳ, đường nét như phượng múa rồng bay.
Nhưng ông đồ đang trải lên giấy chữ nghĩa của thánh hiền, hay đang trải lòng mình nỗi ngậm ngùi của kẻ sĩ đang nhìn thời cuộc đổi thay?
           Câu hỏi ấy nhắc chúng ta nhớ lại thời kỳ đất nước Việt Nam trải qua những cơn biến động, xã hội đảo lộn, và hệ quả có liên quan đến số phận của ông: sự tàn tạ của nền nho học. Khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn đã khép, làm tiêu tan giấc mộng vinh quy của các đệ tử cửa Khổng sân Trình. Biến động ấy dẫn đến sự thất thế của một lớp người mà có thời chúng ta coi như biểu tượng của văn hoá truyền thống.
           Người người đổ xô đi học tiếng Tây. Ông đồ cũng đành từ giã mái trường, từ giã những buổi bình văn, để chấp nhận cách mưu sinh buồn tủi là ngồi viết thuê dăm ba câu đối. Xưa nay ông quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền và việc học không phải để kiếm sống mà là để làm người quân tử, để phò vua, giữ nước ... thế nhưng trong thời buổi suy tàn, ông phải đi bán chữ. Chữ nghĩa cao quý ngày nào giờ trở thành một món hàng đem ra chưng trên vỉa hè đường phố … làm sao lòng ông không khỏi xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời.
Trong nỗi xót xa của người buộc phải làm điều bất đắc dĩ, những tấm tắc ngợi khen của khách qua đường âu cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của kẻ sinh bất phùng thời.
Nhưng rồi chút an ủi nhỏ nhoi ấy cũng không còn. Ông đồ cảm nhận số khách hàng mỗi năm mỗi vắng. Không còn ai cần, không còn ai hay là  ông vẫn ngồi đấy cô đơn, lạc lõng giữa vệ đường. Màu sắc cũng phôi pha. Giấy cũng không còn thắm, bẻn lẽn nằm bên đĩa mực đã khô với những xác lá vàng.
Hình bóng lẻ loi, cô độc của ông đồ giống như một nỗ lực cuối cùng, đang cô đơn chống chọi trong vô vọng... cố níu giữ một thời vàng son trên nét bút giữa dòng đời hối hả. “Lá vàng rơi trên giấy” gợi trong lòng khách yêu thơ một không gian thấm đượm nỗi buồn, đang quấn lấy số phận hẩm hiu của ông đồ trước khi tàn tạ. Tiếng gõ nhịp thời gian càng khắc khoải với câu hỏi :“Người thuê viết nay đâu?” Hờ hững rồi lãng quên. Xung quanh ông chỉ là khoảng trống...
            Xuôi dòng thời gian, mọi thứ lui vào dĩ vãng và để lại cho chúng ta bao nỗi niềm tiếc nuối. Trong số đó có hình ảnh ông đồ một thời vang bóng. Và bài thơ của Vũ Đình Liên là một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn, man mác nỗi lòng hoài cổ.
 Mỗi độ xuân sang, đọc lại bài thơ, chúng ta không khỏi cảm thấy như trước mắt mình vẫn còn có bàn tay của ông đồ đang  phóng bút. Cánh tay ông đưa đẩy, cổ tay ông cầm chiếc bút lông uốn lượn,  rồi từng nét chữ còn tươi màu mực dần dần hiện ra mềm mại như “rồng, phượng” trên tờ giấy hồng điều đỏ thắm. Dường như trong phút xuất thần ấy ông đồ đang bặm môi, gửi gắm tất cả lý tưởng và khát vọng của mình lên từng nét chữ và nỗi niềm đã và đang làm con chữ sống dậy. Bài thơ của Vũ Đình Liên như muốn níu kéo thời gian lùi lại, đưa chúng ta trở về không gian cổ, để cùng tưởng nhớ thời vàng son của những đệ tử “cửa Khổng sân Trình”. 
                                      

     Và dưới đây là bản dịch sang tiếng Pháp của chính
tác giả Vũ Đình Liên cùng với Mireille Gansel.

      Le vieux lettré calligraphe.

Chaque année s’ouvre la fleur du pêcher
On retrouve le vieux lettré
encre de chine, papier pourpre étalés
Sur un trottoir parmi tant de passants

Nombreux ils demandent une calligraphie
Puis prodigues des louanges s’extasient :
« Quel tour de main pour tracer ainsi des traits
Beaux comme un vol de dragon, une danse de phénix ! »

Mais chaque année, on compte les absents
Où sont-ils ceux qui demandent une calligraphie
Le papier triste perd son éclat
L’encre sèche dans l’écritoire mélancolique ….

Le vieux lettré est toujours assis là
Ils passent leur chemin – nul ne le voit
Sur le papier tombe la feuille jaune
Dans l’air vole la fine brume

Cette année elle s’ouvre de nouveau la fleur de pêcher
On ne retrouve plus le vieux lettré
Les hommes du temps passé
Où s’en sont-ils allés ?



          Và bản dịch sang tiếng Anh của Dr. Chat V. Dang :

The Sino-Vietnamese Teacher

Each year, when peach flowers blossom,
We see again the old teacher
Display black ink and crimson paper
On the sidewalk busy with passers-by.

Many people hire him to write,
Praising in wonder his talent:
"His dexterous hand draws like
Dancing phoenix, flying dragon."

But each year, clients become rarer.
Where are you now calligraphy users?
Untouched red paper deep in sadness,
Unstirred ink gloomy inside the jar.

The teacher is still sitting there,
Pedestrians are unaware.
A yellow leaf falls on the paper
As dusty rain flies in the air.

This year, peach trees bloom again
Ancient teacher is not seen.
People from millennia past
Where are your souls now?

                   
                 
Nhà thơ Lê Mộng Thắng giới thiệu
Thêm một bản dịch sang tiếng Hoa





LÃO TÚ TÀI

Niên niên đào hoa khai
Tổng kiến lão tú tài
Truy nghiễn hồng tiên bãi
Thông cù nhân vãng lai

Đa thiểu thị tự giả
Trách trách tiễn châu ky
Xảo bút nhất huy tựu
Long vũ nhi phụng phi 

Lãnh lạc niên phục niên
Cố khách hà mang nhiên
Hồng tiên bi sắc thấn
Truy nghiễn sầu mặc kiên

Tú tài do tại ti
Lộ quá hữu thùy tri
Tiên thượng hoàng diệp lạc
Thiên biên tế vũ phi

Kim niên đào hựu tân
Bất kiến cựu thời nhân
Thương nhiên không trướng vọng
Yên tai vạn cổ hồn.
 


  

    
    
    
    

  恃字者
嘖嘖   
    
    

    
    
    
    

 才猶 在斯
    
    
    

   又新
    
傷然  悵惘
 災萬  



-------------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn internet : Trương Văn Dân và Tập san Quán văn số 12 ( 1-2013)

  

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...

HOA HỌC TRÒ-Trời đất dành riêng tuổi học trò.Một loài hoa đỏ rất nên thơ...
Mỗi năm hoa nở mùa thi đến.Chạnh nhớ trường xưa nhớ bạn bè .Nguyenuthang ..